10. định kiến về sự có sẵn (AVAILABILITY bias)
TẠI SAO CHÚNG TA THÍCH MỘT BẢN ĐỒ SAI HƠN LÀ KHÔNG CÓ BẢN ĐỒ?
Định kiến về sự có sẵn muốn nói đến điều này: chúng ta tạo ra một bức tranh của thế giới bằng cách sử dụng các ví dụ dễ dàng nhất đến trí não ta. Điều này là vô lý, tất nhiên là thế, bởi vì trong thực tế mọi thứ không xảy ra như vậy chỉ vì chúng ta nhận thức một cái gì đó dễ dàng hơn
Ví dụ, một người có thể tranh cãi rằng hút thuốc không phải là không lành mạnh dựa trên cơ sở là ông nội của anh ấy đã sống tới 100 tuổi và đã hút 3 gói thuốc một ngày, một lập luận phớt lờ khả năng ông nội của anh ấy là một trường hợp ngoại lệ.
Tất cả những người bán xổ số đều sử dụng một định kiến đơn giản trong cách thức hoạt động của tâm lý con người, được gọi là định kiến về sự có sẵn (the availability bias). Đây là xu hướng đánh giá xác suất dựa trên sự xuất hiện dễ dàng của những ví dụ.
Khi các tổ chức xổ số đẩy mạnh quảng cáo về những người thắng giải xổ số, mọi người liên tục nghe tin về những người trúng độc đắc. Mặt khác, họ hầu như không nghe được gì về đại đa số những người không trúng giải. Do đó, mọi người giả định là họ có nhiều khả năng trúng số hơn thực tế. Trong xổ số của Anh được quảng cáo là “Người đó có thể là bạn”, tất nhiên câu này là đúng một cách nghiêm túc. Để nói toàn bộ sự thật thì bạn nên đọc là:” Người đó có thể là bạn, nhưng gần như chắc chắn sẽ không phải là bạn.”
Cá mập tấn công thì sao?
Định kiến này ảnh hưởng đến tất cả các phán quyết của chúng ta, dựa trên trí nhớ. Sau đây là một vài ví dụ.
Mọi người đánh giá họ có nhiều khả năng bị sát hại hơn là bị ung thư dạ dày, bởi vì những vụ sát hại được thông báo rất thường xuyên trên tin tức (Brinol et al., 2006). Thực tế thì bạn có khả năng chết vì ung thư dạ dày cao gấp 5 lần so với nguy cơ bị sát hại, dù nguy cơ bị ung thư dạ dày là khá hiếm.
Điều này cũng đúng với những cuộc tấn công của cá mập, mọi người nghĩ là nó xảy ra thường xuyên vì truyền thông đưa tin. Thực tế thì bạn có nhiều khả năng bị chết bởi một phần nào đó rơi khỏi máy bay (Read, 1995).
Điều này cũng đúng với những cuộc tấn công của cá mập, mọi người nghĩ là nó xảy ra thường xuyên vì truyền thông đưa tin. Thực tế thì bạn có nhiều khả năng bị chết bởi một phần nào đó rơi khỏi máy bay (Read, 1995).
Khi 2 người bạn của bạn bị tai nạn xe cộ, bạn sẽ đánh giá con đường đó trở nên ít an toàn hơn và bạn cũng cảm thấy mình có nhiều khả năng bị một tai nạn.
Khi thông tin trở nên rõ ràng hơn, sinh động hơn hoặc dễ dàng hơn khi nhớ lại , thì nó sẽ ảnh hưởng đến cách thức chúng ta đánh giá về xác suất của sự kiện đó.
Lý do chúng ta có định kiến này là thỉnh thoảng nó là một cách hiệu quả để đưa ra những quyết định nhanh chóng. Ví dụ, những sự kiện đáng ghi nhớ – như ngộ độc thực phẩm – dạy cho ta những bài học quan trọng (về những quán ăn rẻ tiền).
Vượt qua định kiến này như thế nào?
Thường thì định kiến về sự có sẵn làm chúng ta lo sợ nhiều hơn cần thiết. Có một cách để vượt qua nó, ví dụ: Có bao nhiêu người bạn biết mà:
Không bị sát hại?
Không trúng số?
Không bị giết bởi cá mập?
Không trúng số?
Không bị giết bởi cá mập?
11. KHOẢNG CÁCH về sự đồng CẢM (EMPATHY GAP)
LÝ DO TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG THÍCH GẶP NGƯỜI KHÁC BIỆT VỚI MÌNH
Rất khó để con người dự đoán được họ sẽ hành xử như thế nào trong tương lai. Khoảng cách về sự đồng cảm xảy ra khi mọi người đánh giá thấp ảnh hưởng của các trạng thái nội tại (ví dụ như tức giận, đau đớn hoặc đói) về hành vi hoặc sở thích của họ.
Vì thế khi người ở trong một trạng thái tâm lý này không hiểu được người khác đang ở trong trạng thái tâm lý khác. Nếu bạn đang hạnh phúc thì bạn không thể hình dung được tại sao người khác lại bất hạnh. Khi bạn không cảm thấy hứng tình thì bạn không thể hiểu được cách bạn hành xử như thế nào khi bạn đang hứng tình.
Khía cạnh quan trọng nhất của định kiến này là sự hiểu biết của con người về "trạng thái phụ thuộc". Ví dụ, với người hay tức giận, rất khó để hiểu thế nào về một người luôn bình tĩnh, và ngược lại; khi một người mù quáng trong tình yêu với một ai đó, rất khó để hiểu những người luôn tỉnh táo, (hoặc để tưởng tượng khả năng sẽ không bị mù quáng trong tình yêu trong tương lai). Điều quan trọng là không có khả năng giảm thiểu khoảng cách trong sự đồng cảm có thể dẫn đến kết quả tiêu cực trong các thiết lập y tế (ví dụ, khi bác sĩ cần chẩn đoán chính xác cơn đau thể chất của bệnh nhân), ở nơi làm việc (ví dụ, khi người chủ cần đánh giá nhu cầu nghỉ hưu của nhân viên) . và trong các thiết lập pháp lý (ví dụ, khi một thẩm phán quyết định hình phạt thích hợp cho một tội phạm cụ thể là gì)
Khoảng cách đồng cảm cũng phụ thuộc vào trí nhớ của người đó về trải nghiệm nội tại của mình. Như vậy, nó rất phổ biến để đánh giá thấp trạng thái nội tại do bộ nhớ hạn chế của mình. Nói chung, con người có nhiều khả năng đánh giá thấp tác dụng của nỗi đau ở trạng thái lạnh so với những người ở trạng thái nóng.
Điều này dẫn đến những sai lầm kinh điển, và tôi nghi ngờ bất cứ ai được cho là miễn dịch. Ví dụ, nếu chúng tôi cảm thấy an toàn, chúng tôi có xu hướng giảm giá ý tưởng rằng những người khác đang lo lắng. Như tôi lưu ý bên dưới, nghiên cứu cho thấy rằng các bậc cha mẹ tự tin, lạc quan thường xuyên đánh giá sai mức độ lo lắng của con họ.
Nhưng để thực sự nắm bắt được sức mạnh của khoảng cách đồng cảm, trước tiên hãy xem xét nó ảnh hưởng như thế nào đến quyết định chúng ta tạo ra về bản thân, tương lai của chính mình.
Khía cạnh quan trọng nhất của định kiến này là sự hiểu biết của con người về "trạng thái phụ thuộc". Ví dụ, với người hay tức giận, rất khó để hiểu thế nào về một người luôn bình tĩnh, và ngược lại; khi một người mù quáng trong tình yêu với một ai đó, rất khó để hiểu những người luôn tỉnh táo, (hoặc để tưởng tượng khả năng sẽ không bị mù quáng trong tình yêu trong tương lai). Điều quan trọng là không có khả năng giảm thiểu khoảng cách trong sự đồng cảm có thể dẫn đến kết quả tiêu cực trong các thiết lập y tế (ví dụ, khi bác sĩ cần chẩn đoán chính xác cơn đau thể chất của bệnh nhân), ở nơi làm việc (ví dụ, khi người chủ cần đánh giá nhu cầu nghỉ hưu của nhân viên) . và trong các thiết lập pháp lý (ví dụ, khi một thẩm phán quyết định hình phạt thích hợp cho một tội phạm cụ thể là gì)
Khoảng cách đồng cảm cũng phụ thuộc vào trí nhớ của người đó về trải nghiệm nội tại của mình. Như vậy, nó rất phổ biến để đánh giá thấp trạng thái nội tại do bộ nhớ hạn chế của mình. Nói chung, con người có nhiều khả năng đánh giá thấp tác dụng của nỗi đau ở trạng thái lạnh so với những người ở trạng thái nóng.
Điều này dẫn đến những sai lầm kinh điển, và tôi nghi ngờ bất cứ ai được cho là miễn dịch. Ví dụ, nếu chúng tôi cảm thấy an toàn, chúng tôi có xu hướng giảm giá ý tưởng rằng những người khác đang lo lắng. Như tôi lưu ý bên dưới, nghiên cứu cho thấy rằng các bậc cha mẹ tự tin, lạc quan thường xuyên đánh giá sai mức độ lo lắng của con họ.
Nhưng để thực sự nắm bắt được sức mạnh của khoảng cách đồng cảm, trước tiên hãy xem xét nó ảnh hưởng như thế nào đến quyết định chúng ta tạo ra về bản thân, tương lai của chính mình.
12. hiệu ứng chim mồi (decoy effect)
Để giải thích về “hiệu ứng chim mồi” (decoy effect), nhà kinh tế học hành vi Dan Ariely đã lấy ví dụ về cách bán quảng cáo của hãng Economist.
Một ví dụ về “lựa chọn mồi” – decoy option
Hãng này đưa ra ba mức đăng kí quảng cáo như sau: 59 USD cho quảng cáo online (khoảng 1,3 triệu VND), 159 USD (khoảng 3,5 triệu VND) cho quảng cáo trên giấy và gói 159 USD nếu sử dụng cả quảng cáo giấy và online.
Ariely giải thích rằng gói quảng cáo giấy chỉ tồn tại với mục đích khiến gói quảng cáo kép trên giấy và online trở nên hấp dẫn hơn, kích thích khách hàng mua gói quảng cáo này.
Khi muốn kích cầu khách hàng, “lựa chọn chim mồi” sẽ là một phương pháp hữu hiệu
Nói một cách khác, khi bạn gặp khó khăn trong việc bán 2 sản phẩm với giá thành đắt, hãy tạo thêm một “lựa chọn thứ 3” sao cho các lựa chọn ban đầu trở nên “bớt đắt” và vì vậy hấp dẫn hơn đối với khách hàng.
Hiệu ứng chim mồi cũng thường được giới chính trị gia sử dụng trong các chiến dịch tranh cử của mình. Giả sử bạn là một cử tri trung lập không thể quyết định giữa Clinton và Obama bởi vì bạn muốn một ứng cử viên mạnh mẽ về an ninh quốc gia mà còn là một người mới mẻ. Bạn thích Clinton trên một khía cạnh và Obama trên một khía cạnh khác. Với ứng viên Edwards, người mà bạn nhìn thấy tàn bạo hơn Obama nhưng là một phần cùng thiết chế với Clinton. Obama có vẻ tốt hơn Edwards trên cả hai tổng số, trong khi Clinton chỉ đánh bại Edwards về vấn đề an ninh quốc gia.
Mặt khác, giả sử bạn quan tâm đến kinh nghiệm ứng cử viên nhưng rất thận trọng với các chính sách như chăm sóc sức khỏe toàn cầu chẳng hạn. Bạn thích kinh nghiệm của Clinton nhưng lo lắng về hồ sơ bịị theo dõi của mình về chăm sóc sức khỏe. Với Edwards, người mà bạn cảm nhận được như chưa được kiểm chứng như Obama nhưng thậm chí có nhiều khả năng theo đuổi một chương trình nghị sự tự do truyền thống. Clinton bây giờ trông tốt hơn Edwards trên cả hai đặc tính. Điều này có nghĩa là Obama và Clinton đứng để đạt được bằng cách thu hút sự chú ý đến những phẩm chất của Edwards mà làm cho mỗi người chạy phía trước trông tốt hơn nhiều so với người kia. Những người chạy trước thông minh, nói cách khác, có thể biến các ứng cử viên thứ ba thành chim mồi của họ.
Về mặt hành pháp và lập pháp thì hiệu ứng chim mồi cũng được sử dụng với các đạo luật gây tranh cãi làm chim mồi để các đạo luật bớt tranh cãi hơn sẽ dễ dàng được thông qua.
Người dịch: Thanh Luan Tran và Rubi
Nguồn: Trích dịch từ Rolf Dobelli – The Art of Thinking Clearly và một số tạp chí chuyên ngành tâm lý
Hiệu ứng chim mồi cũng thường được giới chính trị gia sử dụng trong các chiến dịch tranh cử của mình. Giả sử bạn là một cử tri trung lập không thể quyết định giữa Clinton và Obama bởi vì bạn muốn một ứng cử viên mạnh mẽ về an ninh quốc gia mà còn là một người mới mẻ. Bạn thích Clinton trên một khía cạnh và Obama trên một khía cạnh khác. Với ứng viên Edwards, người mà bạn nhìn thấy tàn bạo hơn Obama nhưng là một phần cùng thiết chế với Clinton. Obama có vẻ tốt hơn Edwards trên cả hai tổng số, trong khi Clinton chỉ đánh bại Edwards về vấn đề an ninh quốc gia.
Mặt khác, giả sử bạn quan tâm đến kinh nghiệm ứng cử viên nhưng rất thận trọng với các chính sách như chăm sóc sức khỏe toàn cầu chẳng hạn. Bạn thích kinh nghiệm của Clinton nhưng lo lắng về hồ sơ bịị theo dõi của mình về chăm sóc sức khỏe. Với Edwards, người mà bạn cảm nhận được như chưa được kiểm chứng như Obama nhưng thậm chí có nhiều khả năng theo đuổi một chương trình nghị sự tự do truyền thống. Clinton bây giờ trông tốt hơn Edwards trên cả hai đặc tính. Điều này có nghĩa là Obama và Clinton đứng để đạt được bằng cách thu hút sự chú ý đến những phẩm chất của Edwards mà làm cho mỗi người chạy phía trước trông tốt hơn nhiều so với người kia. Những người chạy trước thông minh, nói cách khác, có thể biến các ứng cử viên thứ ba thành chim mồi của họ.
Về mặt hành pháp và lập pháp thì hiệu ứng chim mồi cũng được sử dụng với các đạo luật gây tranh cãi làm chim mồi để các đạo luật bớt tranh cãi hơn sẽ dễ dàng được thông qua.
Người dịch: Thanh Luan Tran và Rubi
Nguồn: Trích dịch từ Rolf Dobelli – The Art of Thinking Clearly và một số tạp chí chuyên ngành tâm lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét