Nghiên cứu về con người thường xuyên làm những việc phi lý trí như thế nào đã đủ giúp cho nhà tâm lý học Daniel Kahneman giành được giải Nobel kinh tế, và nó mở ra lĩnh vực về kinh tế học hành vi đang phát triển nhanh chóng. Những hiểu biết sâu sắc tương tự cũng định hình lại tất cả mọi thứ từ marketing cho đến ngành tội phạm học.
Hy vọng giúp bạn lần ra manh mối của những thành kiến đó đã định hình các quyết định của bạn như thế nào, chúng tôi đã thu thập được một danh sách dài gồm những thành kiến nhận thức đáng chú ý nhất.
1. CẢM XÚC SUY NGHIỆM (AFFECT HEURISTIC)
TẠI SAO CHÚNG TA LÀ NÔ LỆ CHO CHÍNH CẢM XÚC CỦA MÌNH?
Một trong những thành kiến phổ biến nhất là Cảm Xúc Suy Nghiệm. Hiệu ứng của nó là sự phán xét tạm thời: Cái bạn thích hoặc không thích. Ví dụ từ "Súng Ống" kích hoạt hiệu ứng tiêu cực. Từ 'Sang Trọng' tạo ra một hiệu ứng tích cực. Sự kích hoạt tự động này, tạo ra một cảm xúc một chiều và ngăn cản bạn xem xét các rủi ro và lợi ích xem chúng như là một biến cố độc lập, thực sự là chúng. Thay vào đó, Cảm xúc suy nghiệm đặt rủi ro và lợi ích của chúng trên cùng một chuỗi cảm giác
Phản ứng cảm xúc của bạn với các vấn đề như điện hạt nhân, rau hữu cơ, trường học tư nhân hoặc xe máy xác định cách bạn đánh giá rủi ro và lợi ích của chúng. Nếu bạn thích một cái gì đó, bạn tin rằng những rủi ro là nhỏ hơn và những lợi ích lớn hơn chúng thực sự là. Nếu bạn không thích điều gì đó, điều ngược lại là đúng. Rủi ro và lợi ích hiện ra như một thứ phụ thuộc. Tất nhiên, trong thực tế, chúng không phải là như vậy.
Ấn tượng hơn nữa, giả sử bạn sở hữu một chiếc Harley-Davidson. Nếu bạn bắt gặp một nghiên cứu chỉ ra rằng việc lái xe có rủi ro hơn suy nghĩ trước đây, bạn sẽ vô thức tinh chỉnh cách bạn đánh giá lợi ích, coi trải nghiệm này ‘Sự bó buộc sẽ lớn hơn cảm giác tự do”.
Nhưng cách ảnh hưởng - "Ấn tượng và cảm xúc ban đầu, tự phát - trở thành hiện thực" xảy ra như thế nào? Các nhà nghiên cứu tại Đại học Michigan đã chiếu một trong ba hình ảnh với ít hơn một phần trăm giây trước mặt những người tham gia: một khuôn mặt tươi cười, khuôn mặt giận dữ hoặc một khuôn mặt trung tính. Sau đó người tham dự phải cho biết họ có thích một khuôn mặt được chọn ngẫu nhiên hay không. Khuôn mặt ưa thích nhất ngay lập tức được chọn là khuôn mặt tươi cười. Dường như, Yếu tố ban đầu không thực chất ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta. Đây là một ví dụ khác mà một yếu tố ban đầu đóng một vai trò quan trọng. Các nhà nghiên cứu Hirschleifer và Shumway đã kiểm tra mối quan hệ giữa lượng mặt trời buổi sáng và hiệu suất thị trường hàng ngày tại 26 sàn giao dịch chính giữa năm 1982 và 1997. Họ tìm thấy mối tương quan giống như câu châm ngôn của nông dân: nếu mặt trời chiếu sáng vào buổi sáng thị trường sẽ tăng trong ngày. Không phải lúc nào, nhưng thường xuyên. Ai có thể nghĩ rằng ánh nắng mặt trời có thể di chuyển hàng tỷ? Mặt trời buổi sáng rõ ràng có tác dụng tương tự như mặt cười.
Cho dù chúng ta có thích hay không, chúng ta là những con rối của những cảm xúc của chính chúng ta. Chúng ta đưa ra những quyết định phức tạp dựa vào cảm xúc của mình, chứ không phải suy nghĩ của chính mình. Chống lại những lựa chọn tốt nhất, chúng ta thế chỗ câu hỏi, "Tôi nghĩ gì về điều này?" bằng "Tôi cảm thấy thế nào về điều này?" Tương lai của chúng ta phụ thuộc vào nó.
2. THÀNH KIẾN “BÁM CHẶT” MỘT ĐIỂM/ MỎ NEO (ANCHORING BIAS)
Đố bạn biết Abraham Lincoln sinh vào thời gian nào? Nếu năm sinh của ông này không bật ra từ bộ nhớ của bạn ngay tức thì, và pin chiếc smartphone của bạn thì vừa mới tịt, làm sao bạn trả lời câu hỏi trên được? Có thể bạn biết rằng ông này là Tổng thống trong thời Nội Chiến Nam Bắc hồi những năm 1860 và ông là Tổng thống Mỹ đầu tiên bị ám sát. Khi nhìn vào Đài tưởng niệm Lincoln tại Washington, bạn không thấy một chàng thanh niên trẻ trung, hoạt bát, nhưng là một thứ gì đó gần giống hơn với một cựu chiến binh sáu chục tuổi đầy mệt mỏi. Đài tưởng niệm một danh nhân phải miêu tả ông ta vào đỉnh cao quyền lực chính trị, tức ở đây là vào tuổi 60. Ta cùng giả định rằng Lincoln bị ám sát vào giữa thập niên 1860, nên ta đoán 1805 hẳn là năm ông sinh ra đời (đáp án đúng là năm 1809). Vậy ta đã giải quyết vấn đề ra sao? Ta tìm thấy một chiếc mỏ neo (anchor) để giúp chúng ta – năm 1865 – và từ đó ta đưa ra một dự đoán có học thức.
Bất cứ khi nào ta phải đoán một thứ gì đó – độ dài sông Mississippi, mật độ dân số ở Nga, số nhà máy hạt nhân ở Pháp – ta sử dụng những chiếc mỏ neo. Chúng ta bắt đầu với một thứ gì đó mà chúng ta chắc chắn và từ đó dấn thân vào lãnh địa xa lạ. Ta có thể làm khác đi không nào? Chỉ cần chọn một con số nảy ra từ trong óc mình chăng? Điều đó hẳn thật là phi lý.
Thật không may, chúng ta cũng dùng những chiếc mỏ neo vào những khi ta không cần đến. Lấy ví dụ, một hôm nọ, trong giờ giảng, một giáo sư đặt một chai rượu nho lên bàn. Ông yêu cầu các sinh viên của mình viết ra 2 chữ số cuối trong số Mã An Sinh Xã Hội (Social Security Number) của họ, rồi sau đó xác định xem liệu họ có sẵn lòng trả mức tiền tương ứng 2 chữ số trên để mua chai rượu vang nọ. Trong cuộc bán đấu giá sau đó, các sinh viên có những con số cao hơn đặt mức giá gần như gấp đôi số sinh viên với những con số thấp hơn. Những chữ số An sinh Xã hội hoạt động như một chiếc mỏ neo – mặc dù theo một cách ẩn khuất và sai lệch.
Nhà tâm lý học Amos Tversky đã tiến hành một thí nghiệm trong đó có một bánh xe may mắn (wheel of fortune). Ông mời những người tham dự quay nó một lượt, sau đó phỏng vấn họ xem nước Mỹ có bao nhiêu tiểu bang. Dự đoán của họ xác nhận cho hiệu ứng mỏ neo: Những ước đoán cao nhất đến từ những người đã quay trúng những con số cao trên bánh xe.
2 nhà nghiên cứu Russo và Shoemaker đã hỏi các sinh viên có biết Bạo chúa Attila của nước Hung Nô bị thất bại liểng xiểng tại châu Âu vào năm nào? Cũng như ví dụ về Số An sinh Xã hội ban nãy, những người tham dự bị neo lại – lần này là bởi vài con số cuối trong số điện thoại di động của họ. Kết quả là gì? Người nào có số cao hơn chọn những năm sau đó và ngược lại. (Nếu bạn muốn biết thì vua Attila băng hà vào năm 453.)
Một thí nghiệm khác: Các sinh viên và những người môi giới bất động sản chuyên nghiệp thực thụ được đi tham quan một ngôi nhà và họ phải ước tính giá trị căn nhà đó. Sẵn trước đó, họ được cung cấp thông tin về giá bán đã niêm yết (được tạo ngẫu nhiên). Đúng như kỳ vọng, hiệu ứng mỏ neo đã ảnh hưởng lên các sinh viên: giá bán càng cao, họ ước tính tài sản càng cao giá. Còn dân chuyên nghiệp thì sao? Liệu họ có định giá căn nhà một cách khách quan? Không, họ bị ảnh hưởng tương tự từ một giá mốc ngẫu nhiên. Giá trị một thứ gì đó càng không chắc chắn-như là bất động sản, cổ phiếu, hoặc nghệ thuật – kể cả các chuyên gia cũng càng dễ bị ảnh hưởng với những mốc neo hơn.
Mỏ neo thì nhan nhản, còn ta thảy đều bám chặt lấy chúng. “Giá bán lẻ đề xuất” in trên nhiều sản phẩm chẳng là gì hơn là một chiếc neo. Các chuyên gia bán hàng biết rằng họ phải thiết lập một mức giá ngay từ giai đoạn đầu – rất lâu trước khi họ nhận được một lời đặt hàng. Tương tự, người ta chứng minh rằng nếu như các giáo viên biết được học lực của học trò trong quá khứ, việc đó sẽ ảnh hưởng lên cách họ đánh giá học lực tương lai của chúng. Thứ hạng gần đây nhất đóng vai trò như một điểm khởi đầu.
Trong những năm mới vào nghề của mình, tôi có một sự hạn chế nhanh chóng (quick stint) tại một công ty tư vấn. Sếp của tôi là một dân pro khi vận dụng các mốc neo. Trong cuộc đàm thoại đầu tiên với mọi khách hàng, ông đảm bảo chốt một mức giá khởi điểm, theo đó, giá thành này gần như vượt quá các mức giá nội bộ của chúng tôi: “Tôi sẽ nói với ngài điều này ngay bây giờ để ngài bớt ngạc nhiên khi nhận được báo giá, thưa Ông-A-hay-B-gì-đó: Chúng tôi vừa mới hoàn thành một dự án tương tự cho một trong những đối thủ cạnh tranh của ngài và chi phí tầm 5 triệu đô la.” Chiếc neo đã được thả xuống: Chuyện thương lượng giá cả bắt đầu chính xác từ con số 5 triệu.
3. THÀNH KIẾN XÁC NHẬN (CONFIRMATION BIAS)
Chúng ta có xu hướng chỉ nghe những thông tin xác minh những định kiến của chúng ta – đó là một trong nhiều lý do tại sao quá khó để có một cuộc trò chuyện thông minh về biến đổi khí hậu.
Gil muốn giảm cân. Anh chọn cho mình một chế độ ăn kiêng và kiểm tra quá trình của anh theo một thang đo vào mỗi sáng sớm. Nếu anh giảm được vài cân, anh tự khen ngợi mình và cho rằng mình đang ăn kiêng đúng. Nếu anh tăng cân lại, anh coi nó như biến đổi thường ngày rồi lờ nó đi. Vài tháng sau, anh chìm trong ảo giác rằng anh đã ăn kiêng tốt, dù khối lượng cơ thể anh vẫn giữ nguyên. Gil là một nạn nhân của thiên kiến xác nhận – mặc dù đây là dạng thức vô hại của nó.
“Thiên kiến xác nhận” là mẹ của tất cả quan niệm sai lệch. Đó là xu hướng diễn dịch thông tin mới sao cho thông tin ấy trở nên hợp lệ với các lý thuyết, niềm tin (conviction) và tín ngưỡng (belief) có sẵn. Nói cách khác, chúng ta lọc bỏ bất cứ thông tin mới nào mâu thuẫn với quan điểm hiện có của mình. (“chứng cớ phản bác”). Đây là một thực tế nguy hiểm. Nhà đầu tư tài giỏi Warren Buffet nhận định: “Điều con người đang làm tốt nhất là diễn dịch mọi thông tin mới sao cho các kết luận trước đó của họ vẫn nguyên vẹn.”
Thiên kiến xác nhận sống khỏe và sống tốt trong thế giới kinh doanh. Một ví dụ: Một nhóm điều hành quyết định chọn một chiến thuật mới. Nhóm này ăn mừng nhiệt liệt bất cứ dấu hiệu nào cho thấy chiến thuật đang thắng lợi. Bất cứ nơi nào mà nhóm điều hành trông thấy, họ thấy đủ các bằng chứng xác nhận, trong khi các dấu hiện về phần ngược lại hoặc bị vô hình trong mắt họ hoặc nhanh chóng bị lờ đi như là những “ngoại lệ” hoặc “trường hợp đặc biệt”. Họ mù quáng trước các chứng cớ phản bác.
Bạn có thể làm gì? Nếu nghe ai đó thốt lên từ “ngoại lệ, thì hãy dỏng tai lên. Thường thì nó đang che giấu sự hiện diện của các bằng chứng phản bác. Ta nên nghe lời khuyên hữu ích của Darwin: Từ hồi còn trẻ, ông đã chuẩn bị để chiến đấu với thiên kiến xác nhận một cách hệ thống. Bất cứ khi một quan sát nào đó mâu thuẫn với lý thuyết của ông, ông tiếp nhận chúng một cách hết sức nghiêm túc và ghi chép ngay vào sổ của mình. Ông biết rằng não bộ chủ động “quên” các bằng chứng phản bác sau một thời gian ngắn. Khi xét thấy lý thuyết của mình càng ngày càng đúng, ông càng chủ động tìm kiếm các mâu thuẫn.
Người dịch: Rubi, Thanh Luan Tran
Trích dịch từ sách: Rolf Dobelli – The Art of Thinking Clearly
Người dịch: Rubi, Thanh Luan Tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét