Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 2)

4. HIỆU ỨNG ĐÁM ĐÔNG (BANDWAGON EFFECT)

Hiệu ứng đám đông hay bầy đàn là một hiện tượng tâm lý, theo đó mọi người làm điều gì đó chủ yếu bởi vì những người khác đang làm điều đó, bất kể niềm tin của chính họ, điều mà họ có thể từ chối hay vượt qua. Nguồn gốc của cụm từ đến từ việc sử dụng thuật ngữ "xe nhạc diễu hành" (bandwagon), đó là một xe hoa trong một cuộc diễu hành khuyến khích mọi người nhảy theo và hòa điệu với âm nhạc đang được chơi. Các hiệu ứng lan truyền của âm nhạc và sự hoành tráng của buổi lễ đảm bảo rằng số lượng lớn người sẽ nhảy theo ngay. Nguyên tắc này được sử dụng từ thế kỷ 19 trong các chiến dịch chính trị để liên kết các ứng cử viên với khái niệm nhiều niềm vui và ghi nhớ những người không lên đồng khi ấy.

Theo thời gian, nó đã được hiểu là một hình thức thao túng để ảnh hưởng đến mọi người tham gia với một xu hướng trong chính trị hoặc hành vi của người tiêu dùng. Hàm ý là vì rất nhiều người khác đang làm nó, nó phải là tốt, hoặc ít nhất là chấp nhận được. Hiện tượng này không cho phép mỗi cá nhân kiểm tra các giá trị và niềm tin cụ thể của họ để xem liệu xu hướng thịnh hành đó có phải là thứ mà họ chọn tham gia hay không.


Hiệu ứng bandwagon có tác động rộng hơn bên ngoài chính trị và hành vi mua bán. Trong tâm lý xã hội, xu hướng gắn kết niềm tin và hành vi của người dân với những người trong một nhóm cũng được gọi là "tâm lý bầy đàn" hoặc "groupthink." Đối với một số người trong chúng ta - những người muốn được tự do thoát khỏi thao túng này - chúng ta muốn chúng ta tự do lựa chọn để nâng cao hạnh phúc của chính chúng ta, trở nên ý thức hơn về những ảnh hưởng xảo trá này có thể đánh cắp hạnh phúc của chúng ta. Nó phải xứng đáng và có giá trị hơn so với thời gian và sự chú ý của chúng ta đã bỏ ra

5. ĐIỂM MÙ ĐỊNH KIẾN (BIAS BLIND SPOTS)

KHÔNG NHẬN RA NHỮNG THÀNH KIẾN NHẬN THỨC CŨNG LÀ MỘT THÀNH KIẾN 

Khi bạn đang lái xe xuống xa lộ, bạn liếc qua vai và kiểm tra gương chiếu hậu. Không thấy gì trong làn đường khác, bạn bắt đầu hợp nhất. Khi bạn đang di chuyển, một chiếc xe khác đột nhiên thổi còi  và bạn ngay lập tức nhận ra rằng thực sự có một chiếc xe khác trong làn đường đó - nó chỉ đơn giản là nó rơi vào điểm mù của bạn. Một điểm mù chỉ đơn giản là một cái gì đó mà bạn luôn bỏ qua, một cách vô tình. Không thể nhìn thấy chiếc xe khác, bạn đã thực hiện việc lái xe một cách dễ dàng mà điểm kết thúc có thể là một tai nạn giao thông

Điểm mù định kiến tương tự với ví dụ lái xe ở trên ở chỗ nó là thứ gì đó ảnh hưởng đến các lựa chọn bạn thực hiện, mặc dù bạn không thể nhìn thấy nó. Khi bạn cân nhắc quyết định, nhiều yếu tố đóng một vai trò trong suy nghĩ của bạn, nhưng thường thì các yếu tố mà chúng ta không biết là có thể tác động đến những lựa chọn này theo những cách mà chúng ta có thể chưa cân nhắc. Điểm mù này cộng với những thành kiến của riêng bạn có thể dẫn đến suy nghĩ sai lệch hoặc méo mó, điều này có thể dẫn đến việc ra quyết định kém. Đôi khi hậu quả của suy nghĩ sai lầm này có thể tương đối nhỏ, nhưng trong các tình huống khác nó có thể dẫn đến hậu quả đáng tiếc


“Mọi người dường như không biết họ định kiến như thế nào" Cho dù người quyết định ra các quyết định tốt hay xấu, mọi người đều nghĩ rằng họ đều ít định kiến hơn các đồng nghiệp của họ,  "Tính nhạy cảm với điểm mù định kiến này dường như phổ biến, và không liên quan đến trí thông minh, lòng tự trọng của con người, và khả năng thực tế để đưa ra những phán đoán và quyết định không định kiến."



Những người có xu hướng có mức độ thiên lệch điểm mù cao hơn thuộc các nhóm:


- Ít có khả năng chấp nhận lời khuyên từ người khác, cho dù họ là đồng nghiệp hay chuyên gia

- Ít có khả năng học hỏi từ việc đào tạo sẽ làm giảm các thành kiến và giúp họ đưa ra quyết định tốt hơn

Về cơ bản, nhiều người có khuynh hướng định kiến cao không chỉ tin rằng họ ít định kiến hơn người khác; họ cũng có nhiều khả năng bỏ qua những lời khuyên của các chuyên gia và có nhiều khả năng chống lại những nỗ lực để giảm thiểu những thành kiến của họ.



Nghiên cứu cho thấy rằng không chỉ có nhiều người giữ niềm tin mù quáng với những thành kiến riêng của họ - họ cũng không tiếp nhận thông tin có thể sửa sai những suy nghĩ sai lầm của họ.

6. THÀNH KIẾN ỦNG HỘ SỰ LỰA CHỌN (CHOICE-SUPPORTIVE BIAS)

  
Khi bạn lựa chọn một thứ gì đó, bạn có xu hướng cảm thấy tích cực về thứ đó, ngay cả nếu sự lựa chọn của bạn có những sai lầm. Bạn nghĩ rằng con chó của bạn là tuyệt vời – ngay cả nếu nó thỉnh thoảng cắn người khác – và những con chó khác là ngu ngốc vì chúng không phải chó của bạn.

Trong khoa học nhận thức, định kiến ủng hộ lựa chọn hoặc hợp lý sau khi mua là khuynh hướng hồi tố lại các thuộc tính tích cực cho một tùy chọn mà người ta đã chọn. Đó là một sự thiên vị nhận thức. Ví dụ, nếu một người chọn tùy chọn A thay vì tùy chọn B, họ có thể bỏ qua hoặc giảm bớt lỗi của tùy chọn A trong khi khuếch đại các tùy chọn B. Ngược lại, họ cũng có khả năng chú ý và khuếch đại ưu điểm của tùy chọn A chứ không phải thông báo hoặc nhấn mạnh những tùy chọn B.

Những gì được nhớ về một quyết định có thể quan trọng như bản thân quyết định, đặc biệt là trong việc xác định bao nhiêu hối tiếc hoặc sự thỏa mãn một trải nghiệm. Nghiên cứu chỉ ra rằng quá trình tạo và ghi nhớ các lựa chọn mang lại những ký ức có xu hướng bị méo mó theo những cách có thể đoán trước được. Trong khoa học nhận thức, một cách có thể dự đoán được rằng ký ức về các lựa chọn bị bóp méo là các khía cạnh tích cực có xu hướng được ghi nhớ như là một phần của lựa chọn đã chọn, cho dù chúng có phải là một phần của lựa chọn đó hay không. tùy chọn bị từ chối. Khi một hành động đã được thực hiện, các cách thức mà chúng tôi đánh giá tính hiệu quả của những gì chúng tôi đã làm có thể bị thiên vị. Người ta tin rằng điều này có thể ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong tương lai của chúng tôi. Những thành kiến ​​này có thể được lưu trữ như những kỷ niệm, đó là những kiến ​​thức mà chúng tôi đưa ra về kinh nghiệm tinh thần dựa trên phẩm chất chủ quan, kiến ​​thức và niềm tin trước đây, động cơ và mục tiêu của chúng tôi, và bối cảnh xã hội. Những ký ức đúng và sai phát sinh bởi cùng một cơ chế bởi vì khi bộ não xử lý và lưu trữ thông tin, nó không thể nói sự khác biệt từ nơi chúng đến.

.
Người dịch: Thanh Luan Tran
Nguồn dịch: Từ nhiều nguồn khác nhau từ các tạp chí tâm lý học

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng nổi bật

Dịch Lời Nhạc Quốc Tế (Phần 9)

CƠN MƯA (La pioggia - Nhạc Ý) Em đọc báo biết rằng Thời gian sẽ thay đổi Những đám mây đen sẽ phủ kín bầu trời Và chim sẻ ở đó Ngư...