Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 10)






28. HIỆU ỨNG TƯƠNG PHẢN (CONTRAST EFFECT)

Trong cuốn sách "Sự Ảnh hưởng" của mình, Robert Cialdini kể câu chuyện về hai anh em, Sid và Harry, người điều hành một cửa hàng quần áo vào những năm 1930 ở Mỹ. Sid phụ trách bán hàng và Harry lãnh đạo bộ phận may mặc. Bất cứ khi nào Sid nhận thấy rằng những khách hàng đứng trước gương thực sự thích bộ đồ của họ, anh ta trở nên hơi bắt đầu lãng tai. Anh ta sẽ gọi anh trai mình: 'Harry, cái này giá bao nhiêu?' Harry nhìn lên từ bàn cắt của mình và hét lên: 'Với bộ đồ cotton đẹp đó, $ 42.' (Đây là một mức giá hoàn toàn rất cao vào lúc đó). Sid sẽ giả vờ như anh không hiểu: 'Bao nhiêu?' Harry lại hét lên: 'Bốn mươi hai đô la!' Sid sau đó sẽ quay sang khách hàng của anh ta và nói: 'Anh ta nói $ 22.' Tại thời điểm này, khách hàng sẽ nhanh chóng bỏ tiền lên bàn và vội vã rời cửa hàng với bộ com lê trước khi Sid lãng tai, tội nghiệp nhận thấy 'sai lầm của anh ấy' :-)

Bạn đang mua một chiếc xe hơi và nhân viên bán hàng cho bạn thấy một mẫu xe đắt tiền có tất cả các chuông và còi. Bạn yêu thích nó, nhưng tự hỏi tại sao anh ta lại cho bạn thấy điều gì đó vượt quá ngân sách của bạn. Sau đó, ông ta dẫn bạn đến một chiếc xe tương tự mà gắn nhãn  'Đang bán (On sale)' và rẻ hơn so với cái đầu tiên nhưng vẫn còn một chút lớn so với ngân sách của bạn. Nhưng so với chiếc xe đầu tiên, nó lợi hơn rất nhiều, và bạn cảm thấy bạn phải mua nó trước khi người khác mua!


Bạn vừa trở thành nạn nhân của một trong những kỹ thuật bán hàng phổ biến nhất - hiệu ứng tương phản. Hiệu ứng tương phản là sự phóng đại hoặc giảm thiểu nhận thức do kết quả của việc tiếp xúc trước đó với chất lượng thấp hơn hoặc cao hơn, nhưng có cùng đặc điểm cơ bản. Trong ví dụ trên, nhân viên bán xe đã cho bạn thấy một chiếc xe rất đắt đầu tiên để chiếc xe mà anh ấy cho bạn xem tiếp theo (cái mà anh ta thực sự đang cố gắng bán bạn) dường như không đắt so với chiếc đầu tiên.


Nếu không có hiệu ứng tương phản, hàng giảm giá sẽ khó bán được. Một sản phẩm đã được giảm từ $ 100 đến $ 70 có vẻ có giá trị tốt hơn so với một sản phẩm luôn có giá $ 70. Giá khởi điểm sẽ không đóng vai trò nào (Và giá cũ sẽ luôn được niêm yết trên sản phẩm đang giảm giá). Một ngày nọ, một nhà đầu tư nói với tôi: "Cổ phần là một giá trị lớn bởi vì nó thấp hơn 50% so với giá cao điểm." Tôi lắc đầu. Giá cổ phiếu không bao giờ là "thấp" hoặc "cao". Đó là những gì nó là, và điều duy nhất quan trọng là liệu nó đi lên hay xuống từ điểm đó


Điểm quan trọng cuối cùng: Nếu bạn đang tìm kiếm bạn đồng hành, đừng bao giờ đi ra ngoài với  những người bạn siêu mẫu của bạn. Mọi người sẽ thấy bạn kém hấp dẫn hơn bạn thực sự đấy. Đi một mình hoặc, tốt hơn, có hai người bạn xấu xí đi cùng (chụp hình cũng nên như vậy  - haha tiếng cười của dịch giả)

29. ẢO TƯỞNG CƠ THỂ NGƯỜI BƠI (SWIMMER'S BODY ILLUSION)


"Ảo tưởng cơ thể của người bơi lội" xảy ra khi chúng ta nhầm lẫn các yếu tố lựa chọn với kết quả. Mọi người nghĩ rằng họ có thể có được cơ thể của một vận động viên bơi lội chỉ bằng cách tập luyện chăm chỉ. Tuy nhiên, những người bơi lội chuyên nghiệp có cơ thể của họ không phải chỉ vì họ tập luyện chăm chỉ; thay vào đó, họ là những người bơi giỏi vì họ được trời sinh loại cơ thể đó. Cách cơ thể của họ được thiết kế là một yếu tố để lựa chọn và không phải là kết quả của các hoạt động của họ.

Chiến dịch quảng cáo sử dụng mẹo này để thu hút chúng ta mua thương hiệu của họ. Đầu tiên, một người mẫu hấp dẫn và rõ ràng là người được chọn. Sau đó, cô ấy bị tối đi và không hấp dẫn với trang điểm. Với mục đích duy nhất của chiến dịch, cô được thể hiện bằng cách sử dụng kem ma thuật được quảng bá bởi thương hiệu! Ôi Chúa ơi! Và  bây giờ, cô ấy trở nên rực rỡ và đáng yêu biết bao nhiêu. Không có ảo giác này, một nửa chiến dịch quảng cáo sẽ không hoạt động


Một ví dụ điển hình khác là các trường đại học hoạt động hiệu quả nhất: Họ có thực sự là trường tốt nhất hay họ chọn những sinh viên giỏi nhất - những người tốt nhất bất kể ảnh hưởng của trường học là gì? Harvard có danh tiếng là một trường đại học hàng đầu. Nhiều người rất thành công đã học ở đó. Điều này có nghĩa là Harvard là một ngôi trường tốt? Chúng ta không biết. Có lẽ trường học đó là khủng khiếp bởi nó chỉ đơn giản là tuyển sinh toàn các sinh viên sáng nhất mà thôi (Nói như vậy không phải phủ nhận giá trị một ngôi trường tốt nhưng cái gì cũng có giá của nó và nhìn thực tế bên trong nó chứ không thuần chỉ cái lớp vỏ bề ngoài - Lời thêm của dịch giả)


Tổng kết: Hãy cảnh giác khi bạn được khuyến khích phấn đấu cho những điều nhất định nào đó. Bạn có thể rơi vào con mồi ảo giác của người bơi lội. Trước khi bạn quyết định đi sâu, hãy nhìn vào gương — và thành thật về những gì bạn thấy. Đừng nhầm lẫn giữa các yếu tố được lựa chọn với kết quả.


30. THÀNH KIẾN QUYỀN LỰC (AUTHORITY BIAS)

Thành kiến quyền lực là xu hướng tuân theo các mệnh lệnh của một nhân vật có thẩm quyền, ngay cả khi bạn mạnh mẽ tin rằng có điều gì đó sai trái với những mệnh lệnh đó. Thử nghiệm cho thấy xu hướng này mạnh hơn nhiều so với hầu hết mọi người giả định về nó và trong bài viết sau, bạn sẽ tìm hiểu cách thành kiến này ảnh hưởng đến mọi người và cách bạn có thể chiến đấu chống lại ảnh hưởng nguy hiểm của nó.

Trong thập kỷ qua, các hãng hàng không cũng đã học được sự nguy hiểm của sự thành kiến quyền lực. Ngày xưa, cơ trưởng là vua. Các mệnh lệnh của anh ta không được phép nghi ngờ. Nếu một phi công nghi ngờ về một sự phi lý nào đó, anh ta sẽ không dám giải quyết bởi sự tôn trọng ( hoặc sợ ) cơ trưởng của anh ta. Bởi hành vi này đã được phát hiện, gần như mọi hãng hàng không đều đã thiết lập cái gọi ‘Quản lý tài nguyên thuyền viên’ (CRM), huấn luyện các phi công và phi hành đoàn của họ để thảo luận về bất kỳ yếu tố nghi ngờ nào đó để công khai và nhanh chóng giải quyết vấn đề. Nói cách khác: họ cẩn thận tái lập lại các quyền thành kiến quyền lực. CRM đã đóng góp nhiều hơn cho an toàn bay trong hai mươi năm qua so với bất kỳ tiến bộ kỹ thuật nào có. ( Chuyện cơ trưởng có dấu hiệu trầm cảm đã gây tai nạn thảm khốc trong chuyến bay MH370 của hãng hàng không Malaysia Arline cách đây vài năm sẽ củng cố thêm về những nguy hiểm có thể có về thành kiến quyền lực)


Còn làm cách nào để chống lại ảnh hưởng nguy hiểm của thành kiến quyền lực thì nhìn tấm gương tàn tạ của dịch giả là hiểu ngay vấn đề hihi





Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 9)





25. THÀNH KIẾN TRUYỀN TẢI THÔNG ĐIỆP ĐỀ CAO BẢN THÂN (SELF-ENHANCING TRANSMISSION BIAS)

Mọi người đều chia sẻ những thành công nhiều hơn là những thất bại của họ. Điều này dẫn đến một sự hiểu sai về thực tế và không thể đánh giá chính xác tình huống.

Nói về việc bạn thành công như thế nào là cách tốt để duy trì hình ảnh của chính bạn và nâng cao danh tiếng của bạn. Nói chung mọi người thích thể hiện bản thân mình như là một ánh sáng tích cực nhất có thể có và nó thường là chu kỳ ngắn hạn như những dối trá thực sự: bởi sự bỏ sót chọn lọc thông tin, như không đề cập đến 50% phần khuyết điểm của mình. Trong bối cảnh xã hội, hầu hết những người phóng đại khả năng của họ sẽ có khuynh hướng bị phát hiện, nhưng sự tương tác xã hội những vùng hẻo lánh, xa xôi thì càng khó phát hiện hơn.

Như Jason Zweig nhận xét: "Luôn Đúng là kẻ thù của Sự Đúng Đắn - một phần vì nó làm cho bạn quá tự tin, thậm chí nhiều nghiêm trong bởi vì nó dẫn bạn quên cách thế giới hoạt động thực sự."

Và làm thế nào để thế giới làm việc liên quan đến các nhà đầu tư và thương nhân mới học việc?

Chúng ta tìm kiếm các ý tưởng trên trang web toàn cầu bởi theo chân các bậc thầy (Guru) của chúng ta và làm theo họ.

Tuy nhiên, những Gurus thường chỉ chia sẻ những câu chuyện thành công của họ và hay bị mất trí nhớ khi viết về những thất bại của họ?

Theo nghiên cứu, họ thường làm vậy. Tất cả bọn họ.

Bài học: Nếu bạn nhận được ý tưởng giao dịch của mình bằng cách theo dõi mọi người trên internet, những người nói với bạn rằng họ tuyệt vời khi đầu tư, bạn chỉ có thể đổ lỗi cho những mất mát của mình bởi chính mình.

Đừng làm thế.


Tránh các sự cố trong tương lai.

26. Mẫu rập khuôn (Stereotyping)

Định nghĩa 1: Niềm tin rằng tất cả mọi người trong cùng một chủng tộc, dân tộc, hoặc nhóm văn hóa sẽ hành động như nhau và chia sẻ cùng một niềm tin và thái độ. Khuôn mẫu (Stereotyping) bỏ qua nhận dạng cá nhân. Đây là một loại phân biệt đối xử.

Định nghĩa 2: Một niềm tin phóng đại có thể là tích cực hoặc tiêu cực nhưng tổng quan mà nói nó không cho phép sự khác biệt.

Khuôn mẫu (Stereotyping) có thể rất có vấn đề. Nó có thể:

- Giảm nhiều sự khác biệt trong con người để phân loại được đơn giản

- Chuyển đổi các giả định về các nhóm người cụ thể thành "thực tế"

- Được sử dụng để biện minh cho vị trí của những người cầm quyền

- Duy trì định kiến xã hội và bất bình đẳng

Ví dụ: Các nhà làm phim thường dựa nhiều vào khuôn mẫu, bởi vì nó nhanh và đơn giản để thiết lập các đặc tính của nhân vật phim. Phụ nữ tóc vàng thường ngu (tóc vàng hoe),, người Mexico là lười biếng, và người da đen là các vận động viên tuyệt vời. Các nhân vật tuổi teen được thể hiện là cuồng công nghệ, vô đạo hay nông cạn. Hay người Việt Nam là thông minh, cần cù ... (nhóm ảo tưởng sức mạnh), hoặc dân Việt Nam mọi rợ, hiếu chiến, ngu dốt trừ tao ra... (Nhóm ảo tưởng sức mình) - Phần này dịch giả thêm vào hihi

Sự khác biệt giữa thành kiến (bias) và khuôn mẫu (Stereotyping) là: thành kiến thuộc sở thích cá nhân, thích hoặc không thích, đặc biệt là xu hướng tạo ra nó có động cơ vô tư, không phán xét hoặc khách quan. Còn khuôn mẫu là một ý tưởng đã được định trước rằng các thuộc tính đặc tính nhất định (nói chung) cho tất cả các thành viên của lớp hoặc tập hợp. Nói đơn giản bias nên được gọi là thành kiến (thiên kiến được thiết lập) còn Stereotyping nên được gọi là định kiến (thiên kiến được định trước). Và điều này dễ gây lầm lẫn giữa hai loại (Phần này dịch giả cũng thêm vào hehe)


Ví dụ: Nếu bạn nghĩ rằng tất cả người châu Á đều thông minh, hoặc đàn ông da trắng không thể nhảy, đó là một khuôn mẫu hay định kiến. Nhưng nếu bạn thuê một người châu Á cho một công việc mà cũng có một người da đen đủ điều kiện như nhau bởi vì bạn nghĩ rằng người da đen không thông minh như người châu Á, bạn đang thành kiến.

27. ẢO TƯỞNG TẦN SUẤT (FREQUENCY ILLUSION)

Ảo tưởng tần suất, hay hiện tượng Baader-Meinhof, là một sự thành kiến nhận thức mô tả biến cố tâm lý về sự tò mò: sau khi học một số thông tin mới, chúng ta bắt đầu chú ý đến nó ở khắp mọi nơi. Chúng ta không thể không ngạc nhiên trước cách nó đi theo chúng ta và chúng ta coi đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, không có gì trùng hợp trong đây cả và lời giải thích thực sự đơn giản.

Bằng chứng cho thấy ảo tưởng tần suất xảy ra quá thường xuyên để được xem như một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nó lặp lại và lặp lại, do đó, rõ ràng là có điều gì đó khác về nó. Ngay cả trong thế kỷ 16 Francis Bacon đã viết:

"Sự hiểu biết của con người một khi nó đã được chấp nhận như một quan điểm ​​(hoặc là nhận được quan điểm ​​hoặc là đồng ý với chính nó) thu hút tất cả mọi thứ khác để hỗ trợ và đồng ý với nó.". Do vậy, Ảo giác tần suất là do hai quy trình nhận thức sau đây gây ra: sự chú ý chọn lọc (selective attention) và thiên kiến xác nhận (confirmation bias)

Một ví dụ để hiểu nó vô cùng cụ thể và sinh động: "Bạn có cô bạn gái mà nàng được bạn một cách cố ý chỉ gọi tắt là B chẳng hạn, còn bạn luôn gợi ý cho nàng chỉ nên gọi bạn là L thôi. Vậy bạn thực sự có ý đồ gì khi làm những điều này? Hỏi tức trả lời: Bạn muốn cô ấy sẽ thấy chữ L hoa sẽ đại diện hình ảnh của bạn khắp nơi, giả sử cô ấy đi qua một thùng rác vô tình in một chữ L to tổ bố thì nó sẽ gợi ý cái bản mặt bạn in ngay trên cái thùng rác ấy. Nhưng cũng có điều đáng lo ngại, giả sử bạn trai cũ của cô ấy vô tình cũng trùng tên L thì sao? Khi ấy nhiều khi dễ xảy ra tình huống trùng lắp nhận thức nghĩa là cái mặt in trên thùng rác đó là bạn hay là bạn trai cũ của cô ấy? Xác suất cao có thể lại là cái mặt người bạn trai cũ. Nên lợi dụng ảo tưởng tần suất để ghim vào đầu một ai đó nó nguy hiểm như là chính cái bản mặt bạn vậy. Chưa kể, nhiều khi cô ấy chả để ý gì cái chữ L chết tiệt mà bạn muốn gieo vào tâm trí cô ấy thì cái chữ B hoa đã hóa hiện khắp nơi trên mọi nẻo đường mà bạn phải đi qua trước rồi. Nên bạn phải vô cùng cẩn thận kẻo "chơi dao lại bị đứt tay" :-)




48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 8)




22. ĐỊNH KIẾN HÀNH ĐỘNG (ACTION BIAS)
Định kiến 21 là Định kiến không hành động thì Định kiến hành động sẽ là phần tiếp theo

Vậy nó là gì?. Một ví dụ rất thực tế:  Giả sử một nhóm thanh niên ra khỏi một hộp đêm và bắt đầu tranh cãi, hét vào nhau và hành động một cách dữ dội. Tình hình gần như leo thang thành một cuộc cãi lộn toàn diện. Các cảnh sát trong khu vực - gồm một số trẻ, một số cao cấp hơn - giữ mình lại, theo dõi mọi chuyện từ xa và can thiệp chỉ khi thương vong đầu tiên xuất hiện. Nếu không có nhân viên giàu kinh nghiệm tham gia, tình trạng này thường kết thúc rất khác nhau: các nhân viên trẻ, quá hăng hái không chống lại được định kiến hành động (action bias) và xông vào ngay lập tức. Một nghiên cứu đã tiết lộ rằng sau can thiệp, nhờ sự hiện diện từ tốn của các sĩ quan cấp cao, kết quả là ít thương vong hơn

Định kiến hành động được nhấn mạnh khi một tình huống mới bắt đầu hoặc chưa rõ ràng. Khi bắt đầu, nhiều nhà đầu tư hành động giống y như các nhân viên cảnh sát trẻ trâu, sung độ bên ngoài câu lạc bộ đêm trong ví dụ trên: họ chưa đủ khả năng phán xét thị trường để họ bù lại những hành động thái quá. Tất nhiên đây là một sự lãng phí thời gian và tiền bạc. Khi Charlie Munger tổng hợp cách tiếp cận của anh ấy để đầu tư: 'Chúng tôi đã có ?. . .? Kỷ luật bản thân để tránh làm những điều ngu ngốc chỉ vì bạn không thể không hoạt động"

Như vậy, định hướng này có ích lợi gì không? Trong môi trường săn bắt hái lượm thời tiền sử của chúng ta, hành động phải vượt qua sự ngẫm nghĩ. Phản ứng nhanh như chớp là rất cần thiết cho sự sống còn; sự cân nhắc có thể gây tử vong. Khi tổ tiên của chúng ta nhìn thấy một hình bóng xuất hiện ở rìa của khu rừng - một cái gì đó trông rất giống một con hổ nanh dài - họ không thể mất một chút nào để tìm hiểu xem nó có thể là cái gì. Họ phải hành động một cách nhanh chóng. Chúng ta là hậu duệ của những người phản ứng nhanh này. Nếu là hồi cổ xưa, tốt nhất là nên chạy đi thật nhanh hơn là lần khần có thể làm mồi cho thú dữ. Tuy nhiên, thế giới của chúng ta ngày nay rất khác; nó đủ cho sự bình tĩnh và cân nhắc, cho dù bản năng của chúng ta có thể gợi ý khác đi.

Mặc dù bây giờ chúng ta coi trọng việc chiêm nghiệm cao hơn, nhưng không hành động hoàn toàn vẫn là một tội lỗi tổ tông. Bạn không có danh dự, không có huy chương, không có tượng đài với tên bạn trên đó nếu bạn đưa ra quyết định đúng đắn bằng cách chờ đợi - vì lợi ích của công ty, nhà nước, kể cả nhân loại. Mặt khác, nếu bạn chứng tỏ sự quyết đoán và phán xét nhanh chóng, và tình hình được cải thiện (mặc dù có lẽ tình cờ), thì có thể ông chủ của bạn, hoặc thậm chí thị trưởng, sẽ bắt tay bạn. Xã hội to lớn ngày nay vẫn thích hành động thô thiển hơn  một chiến lược hợp lý nhưng chờ đợi quá lâu hay chả làm gì cả

Nói tóm lại: trong hoàn cảnh mới hoặc chưa chắc chắn, chúng ta cảm thấy bắt buộc phải làm điều gì đó, bất cứ điều gì. Sau đó chúng ta sẽ cảm thấy tốt hơn, ngay cả khi chúng ta đã làm mọi thứ tồi tệ hơn bằng những hành động quá nhanh hoặc quá thường xuyên. Vì vậy, mặc dù nó có thể không xứng đáng một cuộc diễu hành trong danh dự, nếu một tình huống là không rõ ràng, giữ lại cho đến khi bạn có thể đánh giá các tùy chọn của bạn. "Tất cả các vấn đề của nhân loại xuất phát từ sự bất lực của con người khi ngồi yên lặng trong một căn phòng," (Nghĩa là quyển sách nó xúi cứ liều mạng mà làm loạn chứ không phải tui - Lời thêm của dịch giả hehe)

23. HIỆU ỨNG ĐÀ ĐIỂU (OSTRICH EFFECT)
 Quyết định phớt lờ những thông tin tiêu cực hoặc nguy hiểm bằng cách “chôn” đầu vào cát, giống như một con đà điểu.
Hiệu ứng đà điểu là thuật ngữ tâm lý để chỉ hành động bạn sợ hãi phải đối mặt với sự thật giống như những con đà điểu chôn đầu trong cát để ngụy trang giống lùm cây tránh kẻ thù. Ví dụ, vấn đề tâm lý này có thể xảy ra khi bạn đang phải đối mặt với việc đưa ra các chỉ số bán hàng cuối tháng của mình trong khi bạn không hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra. 
Thật không may, cách duy nhất để bạn thay đổi tình hình là phải đối mặt với sự thật và tìm ra hướng giải quyết có tính thực thi cao nhất. 

PS: Hiệu ứng này quá nổi tiếng rồi nên dịch giả làm biếng dịch thêm muốn tìm hiểu thêm cứ search là ra đầy


24. THÀNH KIẾN DUY TRÌ HIỆN TRẠNG (STATUS QUO BIAS)
Thành kiến duy trì hiện trạng là một định kiến cảm xúc; ưu tiên cho tình trạng hiện tại. Đường cơ sở hiện tại (hoặc trạng thái) được lấy làm điểm tham chiếu, và bất kỳ thay đổi nào lệch đường cơ sở đó được coi là mất mát. Thành kiến duy trì hiện trạng phải được phân biệt khác với sở thích hợp lý cho nguyên trạng (status quo ante), như khi trạng thái hiện tại của vấn đề là vượt trội so với các lựa chọn thay thế có sẵn, hoặc khi thông tin không hoàn hảo là một vấn đề đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn bằng chứng cho thấy rằng Thành kiến duy trì hiện trạng thường xuyên ảnh hưởng đến việc ra quyết định của con người.

Thành kiến duy trì hiện trạng tương tác với các quá trình nhận thức phi hợp lý khác như sự căm ghét về những mất mát, định kiến tồn tại, hiệu ứng ưu đãi, sự trường tồn, sự ngược đãi và tránh né sự hối tiếc. Bằng chứng thực nghiệm cho việc phát hiện thành kiến duy trì hiện trạng được nhìn thấy thông qua việc sử dụng các thử nghiệm đảo ngược. Một số lượng lớn các ví dụ thực nghiệm và hiện nghiệm đời sống. Hành vi liên quan đến kế hoạch nghỉ hưu, sức khỏe và lựa chọn đạo đức cho thấy bằng chứng về thành kiến duy trì hiện trạng
  
Đối với hầu hết chúng ta, trực giác của chúng ta là nói không. Chúng ta có thể nói điều gì đó giống như, “Có nhiều điều để sống hơn là niềm vui,” và trích dẫn tầm quan trọng của các mối quan hệ của chúng ta với những người thân yêu và sự kết nối với thực tế Và có lẽ đó là sự thật.


Thứ Tư, 27 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 7)



19. ĐỊNH kiến kẻ sống sót (Survivorship Bias)

TẠI SAO CHÚNG TA NÊN THƯỜNG VIẾNG NGHĨA TRANG HAY THẰNG CHỘT LÀM VUA XỨ MÙ

Dù Rick có ở đâu, anh cũng thấy toàn những ngôi sao nhạc rock. Họ xuất hiện trên truyền hình, trên các trang bìa của tạp chí, trong các chương trình hòa nhạc và tại các trang web người hâm mộ trực tuyến. Bài hát của họ luôn vang vọng - trong trung tâm mua sắm, trong playlist trực tuyến của anh ấy, trong phòng tập thể dục. Các ngôi sao nhạc rock ở khắp mọi nơi. Họ có rất nhiều. Và họ thành công. Được thúc đẩy bởi những câu chuyện về vô số người hùng guitar, Rick bắt đầu tham gia một ban nhạc. Nó sẽ làm cho anh ấy vĩ đại? Khả năng xảy ra nằm ở xác suất một phần nhỏ hơn zero. Giống như rất nhiều người khác, anh ta rất có thể sẽ kết thúc trong nghĩa trang của các nhạc sĩ thất bại. Nơi chôn cất này chứa nhiều nhạc sĩ hơn 10.000 lần so với sân khấu, nhưng không có nhà báo nào quan tâm đến thất bại - ngoại trừ các siêu sao đã hết thời. Điều này làm cho nghĩa trang thành vô hình với người ngoài

Trong cuộc sống hàng ngày, bởi vì chiến thắng được thể hiện rõ hơn là thất bại, bạn có hệ thống đánh giá quá cao cơ hội thành công của bạn. Là một người ngoài cuộc, bạn (giống như Rick) không chống lại ảo tưởng, và bạn nhầm lẫn làm thế nào để trừ đi khả năng thành công thực sự. Rick, giống như rất nhiều người khác, là một nạn nhân của Định kiến kẻ sống sót (Surviasorship Bias) hay còn gọi "Định kiến ưu tiên người chiến thắng"


Survivorship Bias là để nói tới hiện tượng mọi người thường tập trung quá nhiều vào lời nói/hành vi/thống kê từ những người thắng cuộc, những trường hợp thành công mà quên mất những người thua cuộc/những trường hợp thất bại. Nói cách khác, quá trình lấy mẫu đưa ra kết luận bị sai lạc do xu hướng ưa thích các mẫu thành công. Lúc đó, bức tranh chỉ có toàn màu hồng.
Lỗi logic này phổ biến nhất ở việc học theo các case-study về startup thành công, về việc đầu tư thành công một thứ gì đó (và sau đó nhân rộng một cách nhanh chóng). Việc này dẫn tới mặc dù mình/công ty mình chưa có đủ nguồn lực/sự chuẩn bị cần thiết nhưng vẫn dấn thân vào dự án, kết quả là fail toàn tập -> đổ tại mình thiếu may mắn.
Lỗi logic này cũng nhìn vào một vài điểm sáng của dự án mà đưa ra kết luận chung rằng nếu dẹp dự án này, chúng ta sẽ mất những điểm sáng đó (trong khi nhìn chung là dự án lỗ toàn tập).
Do vậy, đừng kết luận nếu chưa nhìn thấy đủ các khía cạnh của bức tranh. Hoặc nếu phải kết luận, hãy nói rõ mức độ tự tin/chính xác của kết luận là bao nhiêu.


20. ĐỊNH KIẾN CÓ ĐI CÓ LẠI (RECIPROCATION BIAS)


“Có qua có lại mới toại lòng nhau“- “có đi ắt có lại” (reciprocity)  chứng minh rằng con người cảm thấy cực kỳ khó chịu khi mắc nợ người khác.
Nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) và tổ chức từ thiện cũng dùng kỹ thuật y chang: Cho rồi mới nhận. Tuần trước, một tổ chức bảo tồn gửi cho tôi một phong bì đầy các tấm bưu ảnh về tất cả các loại phong cảnh đồng quê. Lá thư đi kèm cam đoan với tôi là những tấm bưu ảnh là quà tặng có thể giữ lại, dù tôi có muốn hay không muốn quyên góp cho tổ chức của họ. Dẫu tôi hiểu chiến thuật của họ, tôi vẫn cần một chút sức mạnh ý chí và nhẫn tâm để vất chúng vào sọt rác.

Điều không may là loại tống tiền lịch sự này – bạn cũng có thể gọi nó là hối lộ –  khá phổ biến. Một tay chuyên cung cấp ốc vít mời các khách hàng tiềm năng của gã đến tham dự chung một trò chơi thể thao lớn. Tháng sau đó, tới lúc khách hàng đặt mua ốc vít. Khao khát không muốn mắc nợ mạnh đến nỗi người mua đành khuất phục và đặt mua với người bạn mới này.

Đây cũng là một kỹ thuật cổ xưa. Ta thấy “có đi ắt có lại” trong các giống loài mà nguồn cung thức ăn của chúng có sự dao động cao. Giả sử bạn là một người săn bắt-hái lượm. Một hôm bạn gặp may và giết được một con hươu. Bạn không thể ăn cả con trong ngày, mà tủ lạnh thì còn cách đó vài thế kỷ. Bạn quyết định chia sẻ con hươu với bầy đàn của mình, điều này đảm bảo rằng bạn sẽ hưởng lợi từ chiến lợi phẩm của người khác khi mẻ hàng của bạn không mấy ấn tượng nữa. Dạ dày của mấy gã bạn thân đóng vai trò tủ lạnh cho bạn.

“Có đi ắt có lại” là một chiến lược sinh tồn rất hữu dụng, một dạng quản lý rủi ro. Không có nó, nhân loại – và vô số giống loài khác – đã bị tuyệt chủng từ lâu. Nó là cốt lõi của sự hợp tác giữa người với người (không thân thích) và là thành phần thiết yếu của sự tăng trưởng kinh tế và kiến tạo thịnh vượng. Sẽ chẳng có nền kinh tế toàn cầu nếu thiếu nó – sẽ không còn nền kinh tế nào cả. Đó là mặt tốt của “có đi ắt có lại.”

Nhưng cũng có mặt xấu của “có đi ắt có lại“: ăn miếng trả miếng. Oan oan tương báo, và rồi bạn sẽ sớm thấy mình đang  trong một cuộc chiến toàn diện. Đức Chúa Jesus đã thuyết giảng rằng ta nên phá tan vòng xiềng xích này bằng cách đưa luôn má còn lại ra, được chứng minh là rất khó thực hiện, vậy nên sức lôi kéo của “có đi ắt có lại” rất thuyết phục ngay cả khi phần bỏ ra không cao.

Vài năm trước đây, một đôi vợ chồng mời tôi và bà nhà dùng bữa tối. Chúng tôi biết cặp này vào một dịp tình cờ ít lâu trước đó. Họ khá tử tế nhưng không thú vị mấy cho cam. Nhà tôi không nghĩ ra cách gì từ chối khéo nên đành chấp nhận. Mọi thứ diễn ra y như chúng tôi đã nghĩ: bữa dạ tiệc vượt xa cả chán. Dẫu rằng thế, chúng tôi miễn cưỡng mời họ đến nhà vài tháng sau đó. Ràng buộc “có đi có lại” tạo ra cho chúng tôi 2 buổi tối chán ngắt. Và, lạ lùng chưa kìa (lo and behold), vài tuần sau đó, họ gửi cho chúng tôi một thư mời kế tiếp. Tôi tự hỏi có bao nhiêu bữa dạ tiệc đã phải chịu đựng luật “có đi ắt có lại”, ngay cả khi thực khách hẳn họ đã muốn biến mất khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy nhiều năm trước đó.

Tương tự, nếu ai đó tiến đến gần bạn trong siêu thị, dù là họ mời bạn một ngụm rượu vang, một mẩu bơ , hay một nắm ô-liu, lời khuyên tốt nhất của tôi là hãy từ chối lời mời của họ – trừ phi bạn muốn kết thúc bằng một chiếc tủ lạnh đầy ắp những thứ linh tinh mà bạn không hề thích chút nào.

21. định KIẾN không hành động (OMISSION BIAS)

Đó là xu hướng thích sự không hành động hơn là hành động, ở bản thân chúng ta và thậm chí trong chính trị.

Theo bạn thì về mặt đạo đức, điều nào sau đây tồi tệ hơn: Đẩy một người xuống biển cho chết đuối hoặc không làm gì để cứu một ai đó rõ ràng đang sắp chết đuối? Nhiều nghiên cứu tâm lý đã chứng minh về “thành kiến bỏ qua” hay "thành kiến không hành động" (omission bias): Khi xem xét cách tốt nhất để làm hại, nếu được lựa chọn, số đông mọi người chọn ‘không hành động’ thay vì hành động, ngay cả nếu cả hai sự lựa chọn đều dẫn đến cùng kết quả xấu. Trong thực tế, con người có xu hướng chọn không hành động ngay cả khi “không hành động” dẫn đến nhiều nguy hại hơn là hành động.

Những nghiên cứu khác đã chứng minh một hiệu ứng tương tự đối với việc đánh giá về những hành động của người khác: mọi người đánh giá một người đầu độc một nạn nhân là đáng trách hơn so với một người không đưa thuốc giải độc cho nạn nhân.

Tại sao mọi người xem tội lỗi của sự chểnh mảng/không hành động ít tồi tệ hơn những tội của sự hành động, ngay cả nếu hậu quả của cả hai là như nhau? Các nhà tâm lý, nhà kinh tế và nhà đạo đức đã đưa ra một số lý do. Chúng bao gồm:
– Đối với sự không hành động có sự mơ hồ về những ý định của người hành động. (Người không hành động đơn giản là không chắc chắn về những gì phải làm?)
– Những hành động thì dễ thấy hơn, thu hút nhiều sự chú ý hơn so với không hành động. (Những hành động ảnh hưởng sâu sắc đến chúng ta hơn và do đó bị đánh giá khắc nghiệt hơn).

Mặt khác, định kiến không hành động thường rơi vào nhiều tình huống khá minh bạch: một sự bất hạnh trong thì tương lai có thể được ngăn ngừa bằng hành động cụ thể và trực tiếp, nhưng cái nhận thấy sâu sắc này không thúc đẩy chúng ta nhiều như nó nên là.


Định kiến không hành động rất khó phát hiện - sau tất cả, hành động dễ nhận thấy hơn là không hành động. Trong những năm 1960, các phong trào sinh viên đã tạo ra một khẩu hiệu: “Nếu bạn không phải là một phần của giải pháp, bạn là một phần của vấn đề"









Thứ Ba, 26 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 6)







16. THÀNH KIẾN THÔNG TIN (INFORMATION BIAS)
Xu hướng tìm kiếm thông tin khi nó không có ảnh hưởng đến hành động. Nhiều thông tin hơn không phải lúc nào cũng tốt hơn. Quả thật, với ít thông tin hơn thì con người có thể đưa ra nhiều dự đoán chính xác hơn. Trong mẩu truyện ngắn “Del rigor en la ciencia”, chỉ gồm duy nhất một đoạn văn, Jorge Luis Borges mô tả một đất nước rất đặc biệt. Trong đất nước này, khoa học vẽ bản đồ phức tạp đến nỗi chỉ có những tấm bản đồ chi tiết nhất, bản đồ tỉ lệ 1:1, to bằng cả đất nước. Những người dân dần nhận ra rằng bản đồ như vậy không giúp họ nhìn thấu được cái gì cả, vì nó chỉ đơn thuần là một bản sao của những gì họ đã biết mà thôi. Bản đồ của Borges là một trường hợp đặc biệt của Thiên hướng thông tin, một ảo tưởng cho rằng nhiều thông tin có thể đảm bảo những quyết định đúng đắn hơn.

Jonathan Baron của Đại học Pennsylvania hỏi các bác sĩ câu hỏi sau : một bệnh nhân có những triệu chứng biểu hiện khả năng 80% anh ta đang mắc bệnh A. Nếu không phải vậy thì anh ta mắc bệnh X hoặc Y. Cả ba căn bệnh đều nghiêm trọng như nhau, và các cách chữa đều cho ra những tác dụng phụ tương đồng. Là một bác sĩ, bạn sẽ đề xuất cách chữa nào? Theo logic thì bạn sẽ chọn bệnh A và đề xuất cách chữa tương ứng. Bây giờ giả sử có một cách chẩn đoán như sau, sau khi kiểm tra kết quả là “dương tính” nếu mắc bệnh X, và “âm tính” nếu mắc bệnh Y. Tuy nhiên, nếu người bệnh thực sự mắc bệnh A, kết quả sẽ có 50% khả năng “dương tính” và 50% khả năng “âm tính”. Bạn có đề xuất thực hiện kiểm tra không? Đa số bác sĩ nói có – mặc dù kết quả không hề có liên quan. Cứ cho rằng kết quả là dương tính, xác suất bệnh A vẫn cao hơn nhiều xác suất bệnh X. Thông tin thêm vẫn không đóng góp gì thêm cho quyết định. Bác sĩ không phải là những chuyên gia duy nhất có thiên hướng cần thông tin dư thừa. Các nhà quản lý và nhà đầu tư cũng rất ham muốn có nó. Có bao lần người ta làm hết nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, trong khi cái sự thực đã rành rành trước mắt? Thông tin thêm không chỉ tốn thời gian và tiền bạc, nó còn đẩy bạn vào thế bất lợi.

Hãy quên chuyện chất đống các dữ liệu. Hãy cố gắng tận dụng những thông tin thực tế đang có. Chúng sẽ giúp bạn có những quyết định đúng đắn hơn. Những kiến thức thừa thải không có giả trị gì cả, cho dù bạn có biết hay không. Daniel J. Boorstin nói đúng: “Trở ngại lớn nhất của sự khám phá không phải sự ngu dốt – mà là ảo tưởng của tri thức.” Và lần tới khi bạn gặp kẻ địch, hãy cân nhắc việc giết hắn – không phải giết bằng lòng tốt, mà là bằng sự đáng sợ của thông tin và phân tích thông tin.

17. THIÊN LỆCH GIỮA CÁC NHÓM (INTER-GROUP BIAS)
"CHÚNG TA" LUÔN ĐÚNG HƠN "CHÚNG NÓ" 

Người ta chỉ cần lướt qua những tin tức để xem tầm quan trọng của thiên lệch giữa các nhóm, xu hướng phân chia mọi người thành một nhóm trong nhóm ưa thích và không ưa thích. Từ các cuộc xung đột giáo phái đẫm máu xé tan Trung Đông, sự gia tăng của các đảng chính trị chống nhập cư phải trên khắp châu Âu, để tăng tiếp xúc với sự tàn bạo của cảnh sát chống lại người Mỹ gốc Phi ở Hoa Kỳ, thiên vị liên nhóm là một đóng góp hàng đầu cho xung đột của con người.

18. THIÊN LỆCH NHẬN THỨC MUỘN (HINDSIGHT BIAS)
TẠI SAO BẠN LUÔN NÊN CÓ MỘT QUYỂN NHẬT KÝ

Não bộ luôn tự động và vô thức khiến các sự kiện và trải nghiệm xung quanh trở nên có ý nghĩa. Điều này khiến cho các sự kiện bất ngờ trở nên không còn bất ngờ, thậm chí trở thành tất yếu. 
Hiện tượng này được gọi là “thiên lệch nhận thức muộn” hoặc “dự đoán theo sự thật đã xảy ra” (hindsight bias). Khi vướng phải lỗi này, nhiều người cho rằng họ thấy những sự kiện xảy ra đã được dự đoán trước với xác suất cao, mặc cho xác suất thực tế của sự kiện trong quá khứ là rất thấp.
Những ký ức dự đoán sự việc sẽ biến mất nên nhiều người sẽ tự tin cho rằng, họ đã dự đoán được điều đó ngay từ đầu – như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hay kết quả cuộc bầu cử…
Sự thiên lệch này làm cho bạn tin sự kiện “có vẻ như” dễ đoán và dễ giải thích, qua đó làm dịu căng thẳng cho não bộ. Nhưng điều này lại ngăn cản suy nghĩ nhằm tìm ra giải pháp và gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hành vi trong tương lai.
Theo các chuyên gia, sự “thiên lệch muộn” chỉ xảy ra sau khi bạn gặp thất bại. Từ đó ngăn cản chúng ta suy nghĩ và chống đối với những hành vi thay thế nhằm đảm bảo thành công trong tương lai từ những thất bại trong quá khứ. 

Vậy tại sao thiên lệch nhận thức muộn lại nguy hiểm như vậy? Vâng, nó làm cho chúng ta tin rằng chúng ta là những người dự đoán tốt hơn chúng ta thực sự có thể, khiến chúng ta kiêu ngạo về kiến thức của chúng ta và do đó sẽ gặp nhiều rủi ro. Và không chỉ với các vấn đề toàn cầu: "Bạn đã nghe gì chưa? Sylvia và Chris không còn ở bên nhau nữa. Tụi nó sẽ luôn luôn không bao giờ có kết quả bởi tụi nó quá khác biệt" ...vv...

Vượt qua được sự thiên lệch nhận thức muộn là không dễ dàng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người nhận thức được nó cũng fail bởi nó cũng giống như tất cả mọi người khác. Vì vậy, tôi rất tiếc, nhưng bạn đã lãng phí thời gian của bạn đọc chương này. Còn thật sự muốn vượt qua nó thì bạn phải thực sự can đảm và thực sự thành thật với chính mình.


48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 5)

13. lỗi quy kết nền tảng (FUNDAMENTAL ATTRIBUTION ERROR)


Mở một tờ báo, bạn biết rằng một CEO đã bị buộc phải từ chức bởi những kết quả xấu. Trong phần thể thao, bạn đọc rằng mùa giải thành công của đội bạn yêu thích là nhờ cầu thủ X hoặc huấn luyện viên Y. Trong sách lịch sử, bạn biết rằng sự thành công của quân đội Pháp vào đầu những năm 1800 là minh chứng cho chiến lược và lãnh đạo tuyệt vời của Napoléon. "Mỗi câu chuyện chỉ có một khuôn mặt". Thật vậy đây là một quy tắc sắt thép trong mỗi phòng tin tức. Luôn luôn tìm kiếm 'góc người', các nhà báo (và độc giả của họ) thực hiện nguyên tắc này thêm một bước nữa, và do đó làm cho con mồi trở thành lỗi quy kết nền tảng (fundamental attribution error). Điều này mô tả xu hướng đánh giá quá cao ảnh hưởng của các cá nhân và đánh giá thấp các yếu tố thuộc về tình huống, và các yếu tố bên ngoài

Lỗi quy kết nền tảng đặc biệt hữu ích cho việc chuyển các sự kiện tiêu cực thành các gói gọn nhỏ. Ví dụ, 'đổ lỗi' cho các cuộc chiến mà chúng ta lười biếng hành động thành lỗi dành cho các cá nhân: như Hitler đơn độc gây ra chiến tranh thế giới thứ hai..vv. Nhiều người nuốt trọn những đơn giản hóa mọi thứ này, mặc dù biết chiến tranh là những sự kiện không lường trước được mà nguyên do vô số chính chúng ta có thể chưa bao giờ hoàn toàn hiểu được. Nghe có vẻ hơi giống với thị trường tài chính và các vấn đề khí hậu, bạn có đồng ý không?

Tóm lại: Nhiều người chúng ta quá bị cuốn hút bởi cảnh tượng của cuộc sống, những người diễn vai đời không hoàn hảo, những cá nhân tự chủ. Một cách đại diện, họ nhào lộn từ tình huống này đến tình huống khác. Nếu bạn muốn hiểu vở kịch hiện tại - thực sự hiểu nó - hãy quên đi những người biểu diễn. Chú ý thật kỹ đến vũ điệu của sự ảnh hưởng mà các diễn viên phải gánh chịu với vai diễn.  


14. HIỆU ỨNG PYGMALION VÀ HIỆU ỨNG GALATEA


Hay còn gọi là Self-fulfilling prophecy (lời tiên đoán tự trở thành hiện thực) được xem như một bí quyết quan trọng trong quản lý nhân sự. Nếu một người (hoặc chính ta) nghĩ ta thông minh hay ngu dốt hay sao đó, họ sẽ đối xử với ta theo cách mà họ nghĩ. Nếu ta được đối xử như thể ta thông minh hay ngu dốt hay sao đó, ta sẽ hành xử, và thậm chí trở thành như thế. Do vậy, những “tiên cảm” ban đầu của người đó về ta đã trở thành hiện thực! Tóm lại, một khi ý niệm đã hình thành, thậm chí ngay cả khi nó không đúng với thực tế, chúng ta vẫn có khuynh hướng hành xử theo đó. Và kỳ diệu thay, kết quả sẽ xảy ra đúng theo kỳ vọng đó, như thể có phép lạ!

Hiệu ứng Pygmalion được diễn giải qua bốn quá trình sau:
– Chúng ta hình thành kỳ vọng về con người hay sự kiện
– Chúng ta thể hiện kỳ vọng đó qua những tín hiệu giao tiếp, đối đãi…
– Người ta có khuynh hướng đáp lại những tín hiệu đó bằng cách điều chỉnh cách cư xử của họ cho phù hợp
– Kết quả là kỳ vọng ban đầu trở thành hiện thực

Kết quả trở lại tác động vào kỳ vọng ban đầu, tăng cường niềm tin vào những điều chúng ta đã nghĩ về con người/sự kiện đó. Bốn quá trình trên đây tạo nên vòng tròn cho “lời tiên đoán tự trở thành hiện thực” (the circle of self-fulfilling prophecies). Vòng lặp càng “quay” lại nhiều càng làm tăng cường ảnh hưởng của nó. 

Hiệu ứng Pygmalion mang một ý nghĩa to lớn khi ứng dụng trong quản lý nhân sự và giáo dục, nhất là đối với việc giáo dục các trẻ cá biệt. Người ta thấy rằng nhân viên/học sinh có khuynh hướng thể hiện, hoàn thành công việc tốt hơn khi được cấp trên/thầy giáo tôn trọng, kỳ vọng, tin tưởng. Đôi khi người ta còn phân ra làm hai dạng: (1) Hiệu ứng Pygmalion – sức mạnh của sự kỳ vọng của cấp trên đối với nhân viên (hay thầy giáo đối với học sinh) và (2) hiệu ứng Galatea – sức mạnh của sự tự kỳ vọng (của nhân viên/học sinh vào bản thân mình). Người ta cho rằng hiệu ứng Galatea (năng lực của sự tự kỳ vọng) này còn thậm chí còn quan trọng hơn cả hiệu ứng Pygmalion. Do đó, người thầy giáo giỏi phải là người biết truyền cho học trò niềm tin và sự kỳ vọng vào bản thân mình.

15. HIỆU ỨNG HÀO QUANG (HALO EFFECT)


Hiệu ứng Hào quang: còn được gọi là nguyên tắc ‘rập khuôn hóa ấn tượng về ngoại hình’ hay ‘Những thứ đẹp thì sẽ tốt’, là xu hướng theo thói quen của con người khi đánh giá những người hấp dẫn về ngoại hình có tính cách lý tưởng hơn những người kém hấp dẫn về ngoại hình. Nói một cách tổng quát, hiệu ứng Hào quang mô tả tác động của hệ tính cách lý tưởng trong việc đánh giá phiến diện một ai đó trên một phương diện nào đó. Vì vậy, “cảm giác” thường lấn át “nhận thức” mỗi khi chúng ta đánh giá người khác. Nói cách khác, chúng ta lấy một thuộc tính tích cực của một ai đó và gắn nó với tất cả những thứ khác về người đó hoặc vật đó.

Thỉnh thoảng, hiệu ứng này tạo những hậu quả dễ chịu - ít nhất là trong ngắn hạn. Bạn đã bao giờ đi đầu trong tình yêu cao gót chưa? (Chả hiểu tình yêu cao gót là gì? - Lời dịch giả)  Nếu vậy, bạn biết cách một người hoàn hảo có thể xuất hiện. Mr hoặc Ms Perfect của bạn có vẻ là toàn bộ gói hoàn hảo: hấp dẫn, thông minh, dễ thương và ấm áp ... Ngay cả khi bạn bè của bạn có thể chỉ ra những nhược điểm rõ ràng, bạn vẫn không thấy gì ngoài những điều kỳ quặc đáng yêu


Hiệu ứng hào quang cản trở tầm nhìn của chúng ta về các đặc tính thực sự. Để chống lại điều này, vượt qua giá trị bề mặt để hiển lộ yếu tố nổi bật nhất. Các dàn nhạc đẳng cấp thế giới thực hiện chúng bằng cách làm cho các ứng cử viên chơi phía sau màn hình không lộ mặt, để giới tính, chủng tộc, tuổi tác và ngoại hình không đóng vai trò gì trong quyết định của họ. Đối với các nhà báo kinh doanh, tôi nhiệt liệt khuyên bạn nên đánh giá một công ty bằng một cái gì đó khác với số liệu hàng quý dễ dàng có được của họ. Đào sâu hơn. Đầu tư thời gian để nghiên cứu nghiêm túc hơn. Những gì xuất hiện không phải lúc nào cũng đẹp, nhưng hầu như luôn luôn được kiểm chứng


Người dịch: Thanh Luan Tran và Rubi

Trích dịch từ Rolf Dobelli – The Art of Thinking Clearly  




Thứ Hai, 25 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 4)

10. định kiến về sự có sẵn (AVAILABILITY bias) 

TẠI SAO CHÚNG TA THÍCH MỘT BẢN ĐỒ SAI HƠN LÀ KHÔNG CÓ BẢN ĐỒ?

Định kiến về sự có sẵn muốn nói đến điều này: chúng ta tạo ra một bức tranh của thế giới bằng cách sử dụng các ví dụ dễ dàng nhất đến trí não ta. Điều này là vô lý, tất nhiên là thế, bởi vì trong thực tế mọi thứ không xảy ra như vậy chỉ vì chúng ta nhận thức một cái gì đó dễ dàng hơn
  
Ví dụ, một người có thể tranh cãi rằng hút thuốc không phải là không lành mạnh dựa trên cơ sở là ông nội của anh ấy đã sống tới 100 tuổi và đã hút 3 gói thuốc một ngày, một lập luận phớt lờ khả năng ông nội của anh ấy là một trường hợp ngoại lệ.

Tất cả những người bán xổ số đều sử dụng một định kiến đơn giản trong cách thức hoạt động của tâm lý con người, được gọi là định kiến về sự có sẵn (the availability bias). Đây là xu hướng đánh giá xác suất dựa trên sự xuất hiện dễ dàng của những ví dụ.
Khi các tổ chức xổ số đẩy mạnh quảng cáo về những người thắng giải xổ số, mọi người liên tục nghe tin về những người trúng độc đắc. Mặt khác, họ hầu như không nghe được gì về đại đa số những người không trúng giải. Do đó, mọi người giả định là họ có nhiều khả năng trúng số hơn thực tế. Trong xổ số của Anh được quảng cáo là “Người đó có thể là bạn”, tất nhiên câu này là đúng một cách nghiêm túc. Để nói toàn bộ sự thật thì bạn nên đọc là:” Người đó có thể là bạn, nhưng gần như chắc chắn sẽ không phải là bạn.”
Cá mập tấn công thì sao?

Định kiến này ảnh hưởng đến tất cả các phán quyết của chúng ta, dựa trên trí nhớ. Sau đây là một vài ví dụ.
Mọi người đánh giá họ có nhiều khả năng bị sát hại hơn là bị ung thư dạ dày, bởi vì những vụ sát hại được thông báo rất thường xuyên trên tin tức (Brinol et al., 2006). Thực tế thì bạn có khả năng chết vì ung thư dạ dày cao gấp 5 lần so với nguy cơ bị sát hại, dù nguy cơ bị ung thư dạ dày là khá hiếm.
Điều này cũng đúng với những cuộc tấn công của cá mập, mọi người nghĩ là nó xảy ra thường xuyên vì truyền thông đưa tin. Thực tế thì bạn có nhiều khả năng bị chết bởi một phần nào đó rơi khỏi máy bay (Read, 1995).
Khi 2 người bạn của bạn bị tai nạn xe cộ, bạn sẽ đánh giá con đường đó trở nên ít an toàn hơn và bạn cũng cảm thấy mình có nhiều khả năng bị một tai nạn.
Khi thông tin trở nên rõ ràng hơn, sinh động hơn hoặc dễ dàng hơn khi nhớ lại , thì nó sẽ ảnh hưởng đến cách thức chúng ta đánh giá về xác suất của sự kiện đó.
Lý do chúng ta có định kiến này là thỉnh thoảng nó là một cách hiệu quả để đưa ra những quyết định nhanh chóng. Ví dụ, những sự kiện đáng ghi nhớ – như ngộ độc thực phẩm – dạy cho ta những bài học quan trọng (về những quán ăn rẻ tiền).

Vượt qua định kiến này như thế nào?
Thường thì định kiến về sự có sẵn làm chúng ta lo sợ nhiều hơn cần thiết. Có một cách để vượt qua nó, ví dụ: Có bao nhiêu người bạn biết mà:
Không bị sát hại?
Không trúng số?
Không bị giết bởi cá mập?

11. KHOẢNG CÁCH về sự đồng CẢM (EMPATHY GAP)

LÝ DO TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG THÍCH GẶP NGƯỜI KHÁC BIỆT VỚI MÌNH

Rất khó để con người dự đoán được họ sẽ hành xử như thế nào trong tương lai. Khoảng cách về sự đồng cảm xảy ra khi mọi người đánh giá thấp ảnh hưởng của các trạng thái nội tại (ví dụ như tức giận, đau đớn hoặc đói) về hành vi hoặc sở thích của họ.

Vì thế khi người ở trong một trạng thái tâm lý này không hiểu được người khác đang ở trong trạng thái tâm lý khác. Nếu bạn đang hạnh phúc thì bạn không thể hình dung được tại sao người khác lại bất hạnh. Khi bạn không cảm thấy hứng tình thì bạn không thể hiểu được cách bạn hành xử như thế nào khi bạn đang hứng tình.

Khía cạnh quan trọng nhất của định kiến này là sự hiểu biết của con người về "trạng thái phụ thuộc". Ví dụ, với người hay tức giận, rất khó để hiểu thế nào về một người luôn bình tĩnh, và ngược lại; khi một người mù quáng trong tình yêu với một ai đó, rất khó để hiểu những người luôn tỉnh táo, (hoặc để tưởng tượng khả năng sẽ không bị mù quáng trong tình yêu trong tương lai). Điều quan trọng là không có khả năng giảm thiểu khoảng cách trong sự đồng cảm có thể dẫn đến kết quả tiêu cực trong các thiết lập y tế (ví dụ, khi bác sĩ cần chẩn đoán chính xác cơn đau thể chất của bệnh nhân), ở nơi làm việc (ví dụ, khi người chủ cần đánh giá nhu cầu nghỉ hưu của nhân viên) . và trong các thiết lập pháp lý (ví dụ, khi một thẩm phán quyết định hình phạt thích hợp cho một tội phạm cụ thể là gì)


Khoảng cách đồng cảm cũng phụ thuộc vào trí nhớ của người đó về trải nghiệm nội tại của mình. Như vậy, nó rất phổ biến để đánh giá thấp trạng thái nội tại do bộ nhớ hạn chế của mình. Nói chung, con người có nhiều khả năng đánh giá thấp tác dụng của nỗi đau ở trạng thái lạnh so với những người ở trạng thái nóng.


Điều này dẫn đến những sai lầm kinh điển, và tôi nghi ngờ bất cứ ai được cho là miễn dịch. Ví dụ, nếu chúng tôi cảm thấy an toàn, chúng tôi có xu hướng giảm giá ý tưởng rằng những người khác đang lo lắng. Như tôi lưu ý bên dưới, nghiên cứu cho thấy rằng các bậc cha mẹ tự tin, lạc quan thường xuyên đánh giá sai mức độ lo lắng của con họ.



Nhưng để thực sự nắm bắt được sức mạnh của khoảng cách đồng cảm, trước tiên hãy xem xét nó ảnh hưởng như thế nào đến quyết định chúng ta tạo ra về bản thân, tương lai của chính mình.


12. hiệu ứng chim mồi (decoy effect)

Để giải thích về  “hiệu ứng chim mồi” (decoy effect), nhà kinh tế học hành vi Dan Ariely đã lấy ví dụ về cách bán quảng cáo của hãng Economist.
Một ví dụ về “lựa chọn mồi” – decoy option
Hãng này đưa ra ba mức đăng kí quảng cáo như sau: 59 USD cho quảng cáo online (khoảng 1,3 triệu VND), 159 USD (khoảng 3,5 triệu VND) cho quảng cáo trên giấy và gói 159 USD nếu sử dụng cả quảng cáo giấy và online. 
Ariely giải thích rằng gói quảng cáo giấy chỉ tồn tại với mục đích khiến gói quảng cáo kép trên giấy và online trở nên hấp dẫn hơn, kích thích khách hàng mua gói quảng cáo này.
Khi muốn kích cầu khách hàng, “lựa chọn chim mồi” sẽ là một phương pháp hữu hiệu
Nói một cách khác, khi bạn gặp khó khăn trong việc bán 2 sản phẩm với giá thành đắt, hãy tạo thêm một “lựa chọn thứ 3” sao cho các lựa chọn ban đầu trở nên “bớt đắt” và vì vậy hấp dẫn hơn đối với khách hàng.

Hiệu ứng chim mồi cũng thường được giới chính trị gia sử dụng trong các chiến dịch tranh cử của mình. Giả sử bạn là một cử tri trung lập không thể quyết định giữa Clinton và Obama bởi vì bạn muốn một ứng cử viên mạnh mẽ về an ninh quốc gia mà còn là một người mới mẻ. Bạn thích Clinton trên một khía cạnh và Obama trên một khía cạnh khác. Với ứng viên Edwards, người mà bạn nhìn thấy tàn bạo hơn Obama nhưng là một phần cùng thiết chế với Clinton. Obama có vẻ tốt hơn Edwards trên cả hai tổng số, trong khi Clinton chỉ đánh bại Edwards về vấn đề an ninh quốc gia.


Mặt khác, giả sử bạn quan tâm đến kinh nghiệm ứng cử viên nhưng rất thận trọng với các chính sách như chăm sóc sức khỏe toàn cầu chẳng hạn. Bạn thích kinh nghiệm của Clinton nhưng lo lắng về hồ sơ bịị theo dõi của mình về chăm sóc sức khỏe. Với Edwards, người mà bạn cảm nhận được như chưa được kiểm chứng như Obama nhưng thậm chí có nhiều khả năng theo đuổi một chương trình nghị sự tự do truyền thống. Clinton bây giờ trông tốt hơn Edwards trên cả hai đặc tính. Điều này có nghĩa là Obama và Clinton đứng để đạt được bằng cách thu hút sự chú ý đến những phẩm chất của Edwards mà làm cho mỗi người chạy phía trước trông tốt hơn nhiều so với người kia. Những người chạy trước thông minh, nói cách khác, có thể biến các ứng cử viên thứ ba thành chim mồi của họ.


Về mặt hành pháp và lập pháp thì hiệu ứng chim mồi cũng được sử dụng với các đạo luật gây tranh cãi làm chim mồi để các đạo luật bớt tranh cãi hơn sẽ dễ dàng được thông qua.



Người dịch: Thanh Luan Tran và Rubi

Nguồn: Trích dịch từ Rolf Dobelli – The Art of Thinking Clearly và một số tạp chí chuyên ngành tâm lý


Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

48 Loại Thành Kiến Nhận Thức phổ biến (Phần 3)

7. ẢO GIÁC GOM NHÓM (CLUSTERING ILLUSION)

Đây là xu hướng nhìn thấy những kiểu mẫu trong những sự kiện ngẫu nhiên.
Vào năm 1957, ca sĩ opera người Thụy Điển Friedrich Jorgensen mua một máy chơi băng để ghi lại giọng của mình. Khi ông nghe lại đoạn thâu âm, ông nghe thấy những tiếng nhiễu kỳ lạ trong đó, thì thầm như những thông điệp siêu nhiên. Vài năm sau đó, ông thu âm tiếng chim hót. Lần này, ông nghe thấy giọng người mẹ đã khuất của ông trong âm thanh nền đang thì thầm với ông: “Ôi! Fried bé bỏng của mẹ, con nghe tiếng mẹ chứ? Mẹ đây con.” Vậy đấy. Đời Jorgensen thay đổi từ lúc đó và ông đã dành trọn đời mình để liên lạc với người đã khuất qua những đoạn băng ghi âm.

Vào năm 1994, Diane Duyser từ bang Florida cũng có một cuộc gặp gỡ với thế giới bên kia. Sau khi cắn một mẩu bánh nướng và đặt lại xuống đĩa, bà thấy khuôn mặt của Đức Mẹ Đồng Trinh trên đó. Bà dừng ăn tức thì và cất thông điệp thần thánh (trừ miếng bị cắn) vào một chiếc hộp plastic. Vào tháng 11 năm 2004, bà bán đấu giá bữa ăn vẫn còn được bảo quản kỹ lưỡng của mình trên eBay. Miếng ăn của bà đem lại chủ nhân của nó 28,000 Đô-la Mỹ.

Vào năm 1978, một phụ nữ từ New Mixeco cũng có trải nghiệm tương tự. Các điểm đen trên chiếc bánh tortilla của bà hợp thành khuôn mặt Chúa Jesus. Báo chí đã đeo bám câu chuyện này, và hàng ngàn người lũ lượt kéo đến New Mexico để xem đấng cứu thế dưới hình hài chiếc bánh buritto. 2 năm trước đó, tức năm 1976, tàu vũ trụ Viking đã chụp từ trên cao một thành hệ đá (rock formation) trông như mặt người. “Khuôn mặt trên sao Hỏa” trở thành tít chạy trên khắp mặt báo thế giới.

Còn bạn? Có bao giờ bạn thấy những khuôn mặt  trong những đám mây hay viền nét của những loài thú trên những tảng đá? Tất nhiên rồi. Điều này hoàn toàn bình thường. Não người cố tìm kiếm các khuôn mẫu và quy tắc. Thực tế là, não lại tiến thêm một bước xa hơn: Nếu nó không tìm thấy khuôn mẫu quen thuộc nào, nó đơn giản sẽ tự sáng chế ra vài cái. Tín hiệu càng nhòe (diffuse), như là nhiễu nền trong băng ghi, não càng dễ tìm thấy “các thông điệp ẩn” trong đó. 25 năm sau khi người ta phát hiện “khuôn mặt trên sao Hỏa”, tàu thăm dò Sao Hỏa (Mars Global surveyor) gửi về các hình ảnh rõ nét, sinh động về các thành hệ đá: khuôn mặt người quyến rũ hóa ra là những quả đồi nham nhở mà thôi.
Những ví dụ phù phiếm trên đây khiến cho ảo giác gom nhóm (clustering illusion) có vẻ vô hại; nhưng thực ra là không. Lấy thị trường chứng khoán làm ví dụ, vốn cho ra những cơn lũ thông tin vô tích sự mỗi giây. Cười toét mang tai, anh bạn tôi bảo rằng y vừa khám phá ra một khuôn mẫu trong biển dữ liệu kia: “Nếu anh nhân tỷ lệ phần trăm sự thay đổi của Dow Jones với tỷ lệ phần trăm sự thay đổi của giá dầu, anh sẽ biết được sự dịch chuyển giá vàng trong vòng 2 ngày tới.” Nói cách khác, nếu giá cổ phiếu và giá dầu cùng nhau lên hay xuống, giá vàng sẽ lên trong ngày sau ngày mai. Lý thuyết của anh bạn tôi hoạt động tốt trong vài tuần, cho đến khi anh bắt đầu đầu cơ với một tổng số lớn hơn trước giờ và cuối cùng phung phí hết số tiết kiệm của ảnh. Anh đã cảm nhận một khuôn mẫu ở nơi vốn không tồn tại.

oxxxoxxxoxxoooxooxxoo. Đây là chuỗi ngẫu nhiên hay có định trước? Giáo sư tâm lý học Thomas Gilovich đã phỏng vấn hàng trăm người với câu hỏi này. Hầu hết không muốn tin rằng chuỗi trên được sắp xếp tùy ý. Họ đoán hẳn phải có một luật nào đó chi phối thứ tự các ký tự trên. Sai lầm, theo như Gilovich giải thích, và ông chỉ ra cho thấy trong trò tung xúc xắc: Có thể tung ra cùng một con số đến 4 lần liên tiếp khá dễ, điều này làm một số người bị mê hoặc. Hiển nhiên chúng ta gặp rắc rối trong việc chấp nhận những sự kiện như vậy có thể diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên.

Trong thế chiến II, quân Đức thả bom London. Trong các loại vũ khí, họ dùng các tên lửa V1, một loại máy bay không người lái tự dẫn đường (self-navigating drone). Với mỗi đợt tấn công, những vùng ảnh hưởng được đánh dấu cẩn thận trên bản đồ, và người London khiếp hãi: Họ nghĩ rằng họ khám phá được một khuôn mẫu và phát triển các lý thuyết về các vùng trong thành phố sẽ là nơi an toàn nhất. Tuy vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, các khảo sát thống kê xác nhận rằng sự phân phối trên hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngày nay nguyên nhân lý giải điều này khá rõ ràng: Hệ thống dẫn đường của tên lửa V1 vô cùng kém chính xác.
Khi nhận thức về một khuôn mẫu nào đó, chúng ta thường nhạy cảm thái quá. Hãy khôi phục thái độ hoài nghi của bạn. Nếu bạn nghĩ là bạn mới khám phá một khuôn mẫu nào, trước hết hãy cho rằng nó chỉ thuần ngẫu nhiên. Và nếu những phần bánh pancake giòn tan của bạn bắt đầu trông như khuôn mặt Chúa Jesus, hãy tự hỏi: Nếu thực sự Người muốn hiện thân, sao ngài không làm vậy ở Quảng Trường Thời Đại hay trên đài CNN?

  8. Ngụy biện CHI PHÍ tổn thất (sunk cost fallacy)

TẠI SAO CHÚNG TA NÊN QUÊN ĐI QUÁ KHỨ?
Bộ phim thật thảm khốc. Sau một giờ, tôi thì thầm với vợ: "Thôi nào, về nhà thôi." Cô trả lời: "Không đời nào. Chúng ta không thể vứt bỏ $ 30. '' Đó không phải là lý do để ở lại, 'tôi phản đối. 'Tiền đã mất rồi. Đây là sai lầm chi phí tổn thất trong lựa chọn thôi ”. Cô lườm tôi như thể cô vừa cắn một miếng chanh.  "Chúng ta đã chi 30 đô la bất kể chúng ta có ở lại hay rời đi, vì vậy yếu tố này không nên đóng một vai trò trong quyết định của chúng ta," tôi nói, cố gắng hết sức để làm rõ tình hình. Không cần phải nói, tôi đã bị buộc ngồi xuống ghế của tôi và tiếp tục xem phim (Thằng cha sợ vợ giống tui - Lời thêm của dịch giả hehe)

Ngụy biện chi phí tổn thất là nguy hiểm nhất khi chúng ta đầu tư rất rất nhiều thời gian, tiền bạc, năng lượng hoặc cả tình yêu vào một cái gì đó. Đầu tư này trở thành một lý do để tiếp tục, ngay cả khi chúng ta đang chịu hậu quả với chính nguyên nhân bị tổn thất. Chúng ta càng đầu tư nhiều, chi phí tổn thất càng cao thì sự thôi thúc tiếp tục càng lớn hơn 


Hành vi phi lý này được thúc đẩy bởi nhu cầu cần nhất quán trước sau như một. Sau tất cả, tính nhất quán này biểu thị độ tín nhiệm. Chúng ta thấy mâu thuẫn có thể xảy ra. Nếu chúng ta quyết định hủy dự án nửa chừng, chúng ta sẽ tạo ra một mâu thuẫn lớn trong tâm trí: chúng ta thừa nhận rằng chúng ta đã từng nghĩ khác về dự án này. Cứ tiếp tục với một dự án vô nghĩa sẽ làm chậm lại nhận thức đau đớn thất bại này và cứ tiếp tục như thế để chối bỏ thực tại


Tất nhiên, có thể có lý do chính đáng để tiếp tục đầu tư vào thứ gì đó để hoàn thành nó. Nhưng hãy cẩn thận tránh cố chấp vì những lý do sai lầm, chẳng hạn như để biện minh cho các khoản đầu tư không thể thu hồi. Việc ra quyết định hợp lý đòi hỏi bạn phải quên đi các chi phí phát sinh cho đến nay. Cho dù bạn đã đầu tư bao nhiêu, nên đánh giá lại về chi phí và lợi ích của nó trong tương lai.


9. Ảo tưởng về sự kiểm soát (Illusion of Control)

Trong sòng bạc, hầu hết mọi người thường ném xúc xắc mạnh tay nếu họ muốn số lớn, và gieo càng nhẹ càng tốt nếu họ hy vọng được số nhỏ - nó cũng phi lý như khi người hâm mộ bóng đá nghĩ họ có thể thay đổi cục diện trận đấu bằng cách áp đảo trước màn hình. Thật không may họ chia sẻ ảo tưởng này với nhiều người những người cũng muốn tìm cách gây ảnh hưởng đến thế giới bằng cách gửi ra những tần số 'đúng' (rung động, năng lượng tích cực, nghiệp chướng ?..?)

Ảo tưởng về sự kiểm soát là một thiên kiến tin rằng chúng ta có thể ảnh hưởng đến thứ gì đó mà chúng ta hoàn toàn không thể ảnh hưởng. Điều này được phát hiện vào năm 1965 bởi hai nhà nghiên cứu, Jenkins và Ward. Ảo tưởng về sự kiểm soát được vận dụng như mẹo lừa khi xin qua đường ở Los Angeles với nút dừng giao thông. Mục đích thực sự của nút này là làm cho chúng ta tin rằng chúng ta có thể ảnh hưởng đến đèn giao thông và do đó chúng ta có thể chịu đựng được sự chờ đợi cho tín hiệu thay đổi với sự kiên nhẫn hơn. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các nút 'mở cửa' và 'đóng cửa' trong một số thang máy: nhiều nút thậm chí không được kết nối với bảng điện. 


Người dịch: Thanh Luan Tran và Rubi
Nguồn: Trích dịch từ sách:  The Art of Thinking Clearly - Rolf Dobelli



Bài đăng nổi bật

Dịch Lời Nhạc Quốc Tế (Phần 9)

CƠN MƯA (La pioggia - Nhạc Ý) Em đọc báo biết rằng Thời gian sẽ thay đổi Những đám mây đen sẽ phủ kín bầu trời Và chim sẻ ở đó Ngư...