Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN PHỤ LỤC)


KHUNG ĐỜI SỐNG
(Phần phụ lục cho : nhân chi sơ tính bản nghiệp - hậu thiên)

Có thể nói Khung đời sống của một cá nhân (có thể mở rộng lên đến một cộng đồng) bao gồm "Khung tính cách" và "Khung xã hội". Và sự tạo thành "Khung đời sống" sẽ phụ thuộc rất lớn vào 02 khung hình trên. Đầu tiên sẽ nói về "Khung tính cách"

Khung tính cách được tạo hình bởi các tính cách cốt lõi của một cá nhân hay cộng đồng. Khung tính cách là sự đấu tranh và giao hòa giữa tính cách cơ bản mang tính tiên thiên (hay còn gọi tính trời sinh) và tính cách học hỏi mang tính hậu thiên (tính cách ảnh hưởng bởi xã hội). Khi ấy vai trò "Khung xã hội" sẽ bắt đầu đóng những vai trò nồng cốt tạo nên sự giao thoa cho 02 dạng khung tính cách kể trên.

Tính cách là gì và nó bao hàm những gì thì gần như ai cũng "biết" nhưng để thật sự "hiểu" chính nó là một quá trình lâu dài. Và "hiểu chính mình" chưa bao giờ là điều dễ dàng, khi đã "hiểu chính mình" đến "mình là mình" lại là một công đoạn vô cùng cam go khác nữa. Bởi "khung tính cách" + "khung xã hội" để tạo ra "khung đời sống" là một cuộc tranh đấu và giải quyết mâu thuẩn nội tại trường kỳ kháng chiến cho đến khi nhắm mắt xuôi tay và cho đến tận nhiều kiếp sống về sau.

Nhắc đến khung tính cách cũng phải nhắc đến một tính chất vô cùng quan trọng khác là "tính cách giới" nó là phần giới tính cá nhân và cộng đồng. Nam Nữ, Đực Cái, Âm Dương dưới bất kỳ hình thức tên gọi nào cũng luôn tồn tại như hai mặt đối lập đời sống (gần đây có phát hiện hệ điều hành máy tính cũng mang tính đực cái của nó luôn đấy 😉) . Nói thẳng luôn về mối quan hệ Nam + Nữ thì nó là những dạng như sau:
- Một là: Đấu tranh và Thỏa hiệp
- Hai là: Phục tùng và Cam chịu
- Ba là: Ngưỡng mộ và Bám víu
Còn dạng hình lý tưởng và mong ước muôn đời: Đồng cảm và Hòa hợp thì xin nói thật luôn là mối quan hệ giữa Nam và Nữ gần như không bao giờ có (nếu có thì nó hiếm quý như Phật 😊). Nhưng trong ba dạng quan hệ thường gặp trên thì dạng một: Đấu tranh và Thỏa hiệp là dạng dễ dẫn đến sự gắn kết bền lâu và đồng đẳng nhất và nếu Thỏa hiệp đủ lượng thì nó sẽ tạo thành chất Hòa Hợp (Nhiều bài viết về Đạo Vợ chồng lẫn Đạo hôn nhân tôi viết có nhắc nhiều đến nó). Còn 02 dạng còn lại thì thật sự rất khó để dẫn đến Hòa Hợp. Nhìn rộng hơn và ngẫm sâu thì các bạn sẽ thấy nó cũng không khác về mọi mặt xã hội và đời sống.

Qua đến "Khung xã hội" thì nói nhanh là hình thái xã hội tạo lập và quyết định "tính chất xã hội". Hình thái xã hội độc tài tạo ra tính chất xã hội độc tài; hình thái xã hội dân chủ tạo ra tính chất xã hội dân chủ và nhiều dạng hình thái xã hội khác nữa sẽ tạo ra những tính chất xã hội khác nhau. Nhưng nói riêng về mặt hòa hợp giữa "khung tính cách" và "khung xã hội" sẽ tạo ra các dạng mà chúng ta hay gặp như:
- Hợp thời: Khi khung tính cách hợp khung xã hội
- Trái thời (bất phùng thời): Khi khung tính cách trái khung xã hội

Đến đây "Khung đời sống" bắt đầu hiển hiện rõ trên mỗi cá nhân lẫn cộng đồng về cách ứng xử trong nó. Nhiều mô hình sống được thiết lập để "khung đời sống" tồn tại và nó cũng không ngoài:
- Một là: Đấu tranh và Thỏa hiệp
- Hai là: Phục tùng và Cam chịu
- Ba là: Ngưỡng mộ và Bám víu
- Hiếm quý là: Đồng cảm và Hòa hợp
Con người sẽ từ đó xác lập vị trí và thái độ sống cho mình trong đời sống. Có thể là Cam chịu, Ẩn dật hay Tranh Đấu ..vv.. Và cứ như thế "Khung đời sống" tiếp tục diễn tiến một cách hiện sinh. Mâu thuẩn như chính nó và hiện hữu như thể là nó phải thế.

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 7)


Phần cuối (7): Hậu Thiên và Nhân duyên quả



Phần Hậu thiên đời sống tôi viết khá rõ trong phụ lục "Khung đời sống" . Chỉ viết thêm một chút quá trình Tiên Thiên tiến đến Hậu Thiên. Ta bắt đầu hòa nhập vào đời sống xã hội là bắt đầu bước vào ngưỡng Hậu Thiên. Nhỏ thì ngồi trên ghế nhà Trường (hoặc lăn lộn xã hội kiếm sống nếu gia cảnh bất hạnh) lớn tí thì đi làm, xây dựng sự nghiệp, địa vị xã hội, lấy vợ (chồng), sinh con đẻ cái rồi nuôi chúng lớn nên người rồi đến thời khắc ta trở về cát bụi. Một quy trình đời người gần như chuẩn mực nhất là thời khắc "nắm xương tro trở về với đất" ai cũng như ai chả khác được. Và giai đoạn chuyển tiếp từ Tiên Thiên đến Hậu Thiên là giai đoạn Cộng Nghiệp Đời Sống hình thành dựa trên Biệt Nghiệp cá nhân. Chính giai đoạn này là giai đoạn vừa chủ động vừa bị động của Nghiệp quả. Cá tính cá nhân có thể hòa hợp về mặt đời sống hay chống trái đời sống phụ thuộc rất nhiều Thiện Nghiệp, Bất Thiện Nghiệp (Cả Nghiệp Thủ Chấp) tạo ra từ Bể Nghiệp. Ví dụ: Một cá nhân có cá tính độc lập, sáng tạo rất khó hòa hợp vào một môi trường giáo dục hay xã hội giáo điều rập khuôn thì cá nhân đó sẽ chống lại nó bằng nhiều hình thức (phần bị động của nghiệp quả). Sự "nổi loạn" đó có thể sẽ kéo dài đến hết đời sống hoặc "thỏa hiệp" với đời sống vào một thời khắc nào đó (đây là phần chủ động của nghiệp). Và "thuyết định mệnh" mà chúng ta nhiều lúc cảm giác nó là như vậy thì thực chất nó không hoàn toàn như vậy.

Triết lý Nhân Quả thì phải nhắc đến phần Duyên bởi nếu thiếu Duyên thì nhiều khi Nhân chưa chắc đã tạo Quả, như cây thiếu nước lấy gì kết trái. Duyên là chất xúc tác của tiến trình Nhân Quả bao gồm 24 Duyên (Nam Tông Phật giáo) và bốn duyên sáu nhân theo (Phật học Bắc Tông) nhưng tôi không đi quá sâu về nó trong chuyên đề này. Nhưng tụ chung cho dễ hiểu nhất thì không ngoài Nghịch Duyên và Thuận Duyên (cũng có thể là Hữu Duyên hay Vô Duyên). Cái Duyên là thứ chúng ta dễ thấy hơn trong tiến trình Nhân Quả (Nhân nhiều khi không thấy, còn Quả nhiều khi chưa tới). Chúng ta thấy chúng ta có Duyên với nhau bởi chúng ta gặp nhau, kết nối nhau trong hàng tỉ người trên thế giới. Chúng ta hết Duyên khi chúng ta không còn sự kết nối và không còn cảm thấy cần nhau nữa. Rất rõ ràng, dễ dàng nhận thấy ngay được thôi.

Một sự thật hiển nhiên thì tiến trình Nhân Quả ngày nay phức tạp và dễ xảy ra hơn xưa rất nhiều do Duyên được hỗ trợ bởi toàn cầu hóa (internet, mạng xã hội). Ví dụ: Ngày xưa, hai đối tượng có Nhân Quả mà một sống ở Mỹ, một sống Việt Nam thì cái Duyên để gặp nhau cho kết nối nhân quả là vô cùng khó nhưng ngày nay qua internet hay facebook thì nhiều khi chỉ một cái click chuột là "Anh Ả kết bầy" lập tức ngay (Như tôi chẳng hạn, bây giờ thì các chủ nợ và các nhân duyên càng ngày kéo tới càng đông hehe). Cũng chính vì vậy mà đời sống con người ngày nay càng phức tạp hơn, tương giao Nghiệp Quả dày hơn. Và chắc chắn là con người khó hạnh phúc hơn ngày xưa rất nhiều. Đúng không quý vị?!

Hết!

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 6)



Phần 6: Quá trình tiên thiên





.
Quá trình tiên thiên của đời người là quá trình tính từ lúc đứa trẻ còn trong bào thai đến vài năm tuổi. Quá trình này đứa trẻ gần nhất với Biệt Nghiệp của mình và chút Cộng Nghiệp với Mẹ hoặc Cha. Quá trình này tính cộng đồng hay Cộng Nghiệp xã hội chưa ảnh hưởng nhiều đến tính cách của trẻ. Chúng ta thấy tính cách trời sinh sẽ bộc lộ rất rõ trong giai đoạn này: Có trẻ hiền, trẻ dữ, trẻ tham, trẻ thảo ...vv.... Và đây chính là quá trình mà nhiều trường phái "lấy mẫu" mà phân tích "nhân chi sơ tính" là thiện hay ác.

Nói về chuyện phân tích bản chất cốt tủy của con người thiện hay ác thì cả triết Đông lẫn Tây đều phân tích rất rõ. Và thường theo từng trường phái sẽ có những luận chứng hay bộ mẫu để chứng minh trường phái mình đúng. Tôi sẽ không đi sâu vào từng trường phái và từng bộ mẫu của mỗi trường phái bởi:
- Việc lấy mẫu bất kỳ trên tổng số dù đúng hay sai sẽ vẫn mang tính hoàn toàn tương đối (trẻ ác nhiều hơn trẻ thiện trong tổng số nên gọi "nhân chi sơ tính bản ác" không thể diễn tả toàn thể là ác cũng như vậy với thiện)
- Việc một đặc tính nào trội hơn một đặc tính nào cũng khó gợi lên tính tổng thể của cái gọi là thiện hay ác (Trẻ tham nhiều hơn trẻ thảo hay ngược lại thì không thể gọi bản chất tổng thể là tham hay thảo)

Với nhận xét riêng tôi thì bản chất gọi là thiện hay ác mang tính "chi sơ" (ban đầu) là quyết định bởi Nghiệp của cá nhân đó. Một đứa trẻ với bản Nghiệp tái sinh phần lớn là Nghiệp Bất Thiện thì khi ra đời tính trời sinh của trẻ phần lớn là tính ác (hư, hỗn, tham lam, đố kỵ ...) còn một đứa trẻ với bản Nghiệp tái sinh phần lớn là Nghiệp Thiện thì khi ra đời tính trời sinh của trẻ phần lớn là tính thiện (ngoan, hiền, thảo, bao dung ...). Nhưng bản Nghiệp con người khi tái sinh đa phần không phải hoàn toàn là thuần Thiện hay thuần Ác nên một đứa trẻ ra đời ta luôn thấy thấp thoáng hai mặt đối lập trong đó. Ví dụ: một đứa trẻ bản chất hiền lành vô kể nhưng trong một vài trường hợp vẫn lộ cái ác trong nó và ngược lại. Nên có thể thấy rõ bản chất Thiện hay Ác từ ban đầu là đánh giá tượng đối và nó phụ thuộc rất lớn vào phần Nghiệp quả đưa con người đến sự Tái Sinh.

Tôi chợt nhớ đến một phim về Mafia. Nhân vật bố già xem phim về một đoạn đầy tính cảm động nhân ái thì nhân vật rơi nước mắt rất thật nhưng một cuộc điện thoại đàn em gọi tới thì nhân vật ra lệnh giết người một cách vô cùng tàn nhẫn và lạnh lùng. Sau cuộc gọi, trở lại với bộ phim thì tiếp tục nức nở trước cảnh bi ai của tha nhân. Một bộ phim thể hiện rất rõ tính "hậu thiên" mà tôi sẽ trình bày trong phần tiếp theo.
.
(Còn tiếp)

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 5)



Phần 5: Nhập Thai




Những phần trước tôi có nói những yếu tố cấu thành một bể nghiệp (Cũ + Mới + Nghiệp ta tạo ra + Nghiệp ta nhận lấy từ người khác + Nghiệp bám chấp). Và khi ta mất ở kiếp hiện tại những bể nghiệp này tiếp tục tái sinh cho kiếp kế tiếp. Quá trình nhập thai cho đời sống tiếp theo thì nhiều dạng thai sinh tùy thuộc vào cung cõi chúng ta tái sinh. Tôi chỉ muốn tập trung vào cõi Con Người (Nhân sinh) cho chuyên đề này.

Rất khoa học và cũng rất tâm linh cho vấn đề nhập thai. Thai muốn cấu thành phải có tinh cha + trứng mẹ + Nghiệp lực tái sanh + Duyên hòa hợp giữa cha mẹ với con cái. Thiếu bất kỳ yếu tố nào thì thai cũng không cấu thành. Nếu viết về quá trình thai phát triển và sinh khởi như thế nào tôi thấy không cần thiết bởi các tài liệu khoa học lẫn tâm linh viết về nó rất nhiều (Bạn nào muốn tìm hiểu cứ search ra là đầy). Tôi chỉ muốn nêu đến một yếu tình mà nhiều truyền thống tôn giáo hay lặp đi lặp lại là yếu tố "linh hồn". Nếu hiểu linh hồn là bất biến, nguyên con từ kiếp này sang kiếp khác thì chắc chắn các bạn phải biết các bạn là ai. Nhưng hầu như các bạn chả biết hay nhớ một tí gì và chả biết mình mang trong mình những nghiệp quả chi (trừ một vài trường hợp đặc biệt, biết được một chút đỉnh mà thôi). Các bạn có thấy sự phi lý này không? (Tôi chỉ gợi những nghi vấn để các bạn suy xét)

Quay lại vấn đề Nghiệp Lực khi nhập thai. Mỗi một thai nhi là một Biệt Nghiệp (đừng hiểu nó là nguyên con) khi vào thai của người mẹ là bước đầu Cộng Nghiệp với mẹ. Đời sống tinh thần lẫn sinh hoạt của mẹ như thế nào đều ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh khởi của bào thai. Một bào thai vào cõi giới sinh khởi nào là bước Cộng Nghiệp thứ hai. Ví dụ: Sinh vào Cõi Người thì mọi đời sống bản năng, sinh khởi, trụ và hoại diệt phải theo kiểu con người chứ không khác được. Sinh vào súc sinh thì phải theo kiểu sống súc sinh. Kiếp trước là Người nhưng kiếp này là Súc Sinh thì có giữ được kiểu sống và suy nghĩ như người không? Đây là là gợi ý thứ hai cho các bạn theo thuyết "linh hồn". Bước Cộng Nghiệp thứ ba là nơi chốn các bạn sinh ra. Vì dụ: Sinh tại Việt Nam hay Mỹ?!. Sinh ra trong nhà Nghèo hay Giàu?!. Sinh ra có đủ cha mẹ bên mình hay không?! ...vv...

Một Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp từ mẹ khi còn trong Thai cho đến sinh khởi vài năm tuổi (Chưa bị sự chi phối tâm tính bởi Xã Hội) được gọi là quá trình Tiên Thiên. Quá trình lớn lên bị ái nhiễm tâm tính bởi Xã Hội gọi là quá trình Hậu Thiên. Những phần tiếp theo, tôi sẽ phân tích về những quá trình này. Và nó chính là lý do tại sao có cái tiêu đề: "NHÂN chi sơ tính bản Nghiệp" này.
.
(Còn tiếp)

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 4)


Phần 4: Dòng chuyển dịch của Nghiệp lực




Trong phần 3 tôi có nói Nghiệp lực là những dòng nghiệp thức linh động và bất định. Những tính chất kể trên để cho ta thấy rõ Nhân Quả Nghiệp Báo không hề đơn giản hiểu theo logic của chúng ta đối với Sự Chết lẫn Sự Tái Sinh. Chính vì vậy khái niệm linh hồn nếu hiểu theo nghĩa trường tồn bất biến, hay chuyển nguyên con Tâm Thức từ đời này sang đời khác chỉ thay bởi một lớp vỏ mới là khái niệm không xác thực. Để hiểu rõ sự không xác thật này phải hiểu sâu về khái niệm Sát Na Tâm. Từng dòng chuyển dịch hay biến dị của Tâm Thức theo từng sát na được giảng rất rõ trong Vi Diệu Pháp ( Abhidhamma ). Và có thể tôi sẽ nói rõ hơn trong một chuyên đề khác bởi không muốn làm loãng và mất tập trung đối với chuyên đề chính này.

Nhưng Sự Sống và Sự Mất Đi rồi Sinh Khởi của từng sát na tâm chính là thế giới Vi Mô của Tâm Thức mà từ đó thế giới Vĩ Mô của Đời Sống được hình thành (Điều này hoàn toàn phù hợp với Khoa Học Hiện Đại về 2 chiều tương liên, tương hỗ giữa yếu tố Vi Mô và Vĩ Mô). Trong phần 3, tôi cũng có nhắc tới Bể Nghiệp (Cũ + Mới) là phần Định Lượng và Lực Thủ (lực bám chấp) là phần Định Tính cho sự Tái Sanh kiếp sống mới. Và Cánh Cửa rất quan trọng cho sự Tái Sanh chính là cửa ngõ Cận Tử.

Cận Tử Nghiệp thì nhiều giáo lý có nhắc tới cả về mặt hỗ trợ như thế nào để việc Tái Sanh diễn ra tốt đẹp. Nhưng tụ chung hết cả thì bạn sống như thế nào thì bạn sẽ chết như thế đấy và sự tái sanh kế tiếp sẽ tương ưng với Bể Nghiệp mà bạn đã tạo ra. Chứ đừng nên hiểu là làm đủ mọi thứ Nghiệp Bất Thiện rồi khi Cận Tử Nghiệp đến chỉ cần nhờ các sư thầy tâm linh cúng kiến, tụng niệm hoành tráng là Thoát Nghiệp hay Tái Sanh tốt. Nếu là như vậy thì các đại tỉ phú hay các nguyên thủ quốc gia sẽ hóa Thánh hóa Thần hết trơn hết trọi (Còn chuyện phong Thánh, phong Thần cho người chết của một nhúm người đang còn sống hiện nay là chuyện tiếu lâm cho vui vậy thôi)

Ta có thể hiểu đơn giản: Tích tụ Nghiệp là phần Gốc, Lực Thủ (Lực bám chấp) là phần Ngọn và Cận Tử Nghiệp là Cánh Cửa để dẫn đến việc Tái Sanh. Và Lực Thủ (Lực bám chấp) ảnh hưởng rất nhiều đến nơi tái sanh tiếp theo của chúng ta. Phần trước tôi cũng có nhắc đến về sự mắc kẹt trong Cõi Trung Ấm của một số người bởi Lực Thủ này. Nhiều trường hợp người chết lực bám chấp quá mạnh vào tài sản, nhà cửa vườn tược nên khi mất thì phần Vong Linh không chịu tái sanh mà ở riết để giữ của (Nhiều đất đai, mặt tiền đắc địa nhưng người sống không thể sống, buôn bán hay làm ăn gì được trên đó bởi Vong Linh họ phá). Còn Lực Bám Chấp vào một đối tượng nào đó quá mạnh thì họ cứ đi theo riết đối tượng như vậy. Và khi đối tượng đó chết đi thì họ lại bám tiếp vào tái sanh đời sau của đối tượng này (Trường hợp này giải thích cho nhiều đối tượng có Ái Nghiệp (Nghiệp Yêu - Ghét) và Si Nghiệp quá nặng). Một lời khuyên chân thành: Sự buông bỏ bám chấp phải nên được thấu hiểu và thực hành dần dần để Lực Thủ của chúng ta giảm nhẹ đi. Nó sẽ tốt cho hiện tại lẫn sự tái sanh về sau này của chúng ta.

(Còn tiếp)

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 3)

Phần 3: Nghiệp lực đi về đâu?



Ở Phần 2, tôi có nói đến Nghiệp Lực sẽ quyết đến chuyện tái sanh và đầu thai của các bạn. Cũng chính trong Phần 2 này, tôi cũng có nhắc chính Thủ (Sự bám chấp) chính là tiền đề để Nghiệp Lực tái sanh. Vậy Nghiệp Lực là gì?

Nói dễ hiểu thì các hành động có tâm ý đều tạo ra Nghiệp. Tính chất Nghiệp này khá linh động và có tính bất định nhưng nó sẽ luôn tồn tại. Và cái tồn tại của Nghiệp là dưới một dạng Lực. Các bạn nếu học qua về Vật Lý sơ cấp sẽ hiểu Lực là gì? Nếu hiểu sâu hơn trên mặt Cơ học Lượng Tử thì sẽ biết về mặt cấu tạo và bản chất của Lực (Tôi không đi sâu chi tiết về nó bởi mục đích bài viết không hướng về Khoa học). Nhưng một điều chắc chắn các bạn hiểu rõ sẽ có Lực nặng hay Lực nhẹ. Và Nghiệp Lực cũng sẽ là như vậy: Có Nghiệp lực nặng và Nghiệp lực nhẹ nếu nói về cường độ. Và nhiều dạng tồn tại khác của Nghiệp mà tôi đã định nghĩa rõ và liệt kê trong Phần 1.

Chúng ta có hình hài hiện nay là những tích tụ Nghiệp tạo thành, tính cách cũng như số phận của chúng ta cũng là do Nghiệp ban cho. Chúng ta đến cuộc đời này bởi những Nghiệp cũ và để tạo thêm các Nghiệp mới. Và Cái Chết thật sự chỉ là một giai đoạn của tiến trình liên miên bất tận này. Cũng như vậy với Sự Sống (hay Sự Tái Sanh). Những Nghiệp cũ có khi trả xong nhưng cũng có khi trả hoài không hết nhưng Nghiệp mới lại đến. Và nó lại tiếp tục tích tụ thành một bể Nghiệp khác. Và Bể Nghiệp này sẽ theo các bạn suốt cuộc hành trình.

Và có hai cột mốc rất quan trọng như hai cánh cửa để các bạn tiếp tục cuộc hành trình với hình dạng khác là: Thời điểm Cận Tử và Cận Sinh. Phần này tôi sẽ viết về Giai Đoạn Cận Tử, còn phần sau sẽ là Thời Khắc Cận Sinh. Thời điểm các bạn tiếp cận Cái Chết sẽ là giai đoạn đo đếm những tích tụ Nghiệp cả Cũ lẫn Mới của các bạn. Và chính Thủ (Sự bám chấp) là công cụ mang Định Tính quyết cho Nghiệp Lực các bạn sẽ đi về đâu. Thường khi các bạn Chết thì trạng thái Nghiệp Lực đi về chốn đầu thai mới chỉ nằm trong tầm khoảng 7x7 = 49 ngày mà các sách tâm linh hay gọi là giai đoạn Thân Trung Ấm. Nhưng có một số trường hợp đặc biệt thì các Thân Trung Ấm (Vong linh) lại bị mắc kẹt rất lâu trong cõi Trung Ấm (cõi Trung Giới) này. Đó là các trường hợp chết bất đắc kỳ tử (đột tử), chết bằng cách tự sát và LỰC THỦ ( lực bám chấp) quá mạnh với kiếp sống hiện tại. Và  thực tế có những vong linh mắc kẹt hàng trăm năm trong cõi trung ấm.


(Còn Tiếp) 

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 2)

Phần 2: Chuỗi duyên nghiệp và sự tái sanh


Như đã định nghĩa ở phần 1, thì Nghiệp tạo thành do các hành động có tâm ý. Và điều này cũng để cho chúng ta hiểu rõ rằng hầu như chúng ta hiện nay luôn tạo Nghiệp mới bởi chả hành động nào của chúng ta đang làm mà không từ tâm ý hay mong muốn này nọ mà ra, trừ khi chúng ta hoàn toàn vô tư, không mong cầu gì từ các hành động của mình. Nhưng muốn được như thế thì chúng ta phải chứng trú được VÔ SANH PHÁP (Pháp không sanh diệt) của hàng bồ tát bát địa trở lên (các bồ tát thấy rõ thực pháp và không còn trồi sụt trong dòng sanh tử luân hồi) hoặc chứng quả vị BẤT LAI của chư thánh A na hàm (anāgāmī). Chúng ta còn đầy Tham Lam về Danh và Lợi thì chúng ta còn tạo Nghiệp dài dài và chúng ta phải tiếp tục tái sanh. Nên ai hay nói "Tôi cố gắng từ nay không tạo Nghiệp nữa" thì cái tôi gì đó nên đổi thành "Tôi cố gắng từ nay không tạo Nghiệp ác nữa mà ráng cố gắng gieo Nghiệp thiện" mới là một câu nói đúng đắn nhất.

Sự tái sanh của mọi loài theo giáo lý chính là chuỗi 12 nhân duyên mà đức Phật cũng như nhiều bậc giác ngộ khác đã thuyết. Để viết rõ từng duyên khởi phát sinh về Chuỗi 12 nhân duyên thì nó khá dài và cũng không phải là trọng tâm của chuyên đề này (Các bạn search tìm hiểu thêm nếu quan tâm). Tôi chỉ muốn tập trung vào 03 chi phần chính về sự Tái Sanh chính là Thủ (Sự Bám Chấp); Hữu (Sự Có) và Sanh (Sự Tái Sanh).

Sự bám chấp (Thủ) hình thành khi chúng ta luôn Mong Cầu. Còn mong cầu gì thì hàng trăm ngàn kiểu mong cầu. Sự mong cầu thành hay không thành gì thì luôn tạo ra sự bám chấp. Ví dụ dễ hiểu: Giàu rồi muốn giữ mãi sự giàu chứ ai muốn mất. Mong giàu không được thì cũng luôn chứa mãi sự mong muốn ấy chứ có mất đi đâu. Yêu thì cũng vậy thôi chả khác hehe. Và Sự Bám Chấp (Thủ) nó tạo thành để tạo Sự Có hay Chiếm Hữu (Hữu). Chiếm hữu gì? Chiếm Hữu đối tượng mà ta mong muốn. Lấy ví dụ ở trên xuống làm ví dụ về Hữu chính là sự chiếm hữu tài sản, chiếm hữu yêu thương ..vv.. Và chính Hữu là Nghiệp Lực dẫn ta đến sự Tái Sanh (Sanh) bởi dòng tương tục của Nhân Quả (Muốn -> Được và Được -> Bám Chặt).

(Còn tiếp)

NHÂN CHI SƠ TÍNH BẢN NGHIỆP (PHẦN 1)

Phần 1: Nghiệp là gì?



Nghiệp (karma) hầu hết nếu chúng ta có quan tâm về tâm linh đều biết nó là gì (Cứ search google là hiểu ngay) nên tôi cũng không chủ ý viết về nó quá chi tiết như một học thuật bởi nó quá thừa mứa. Tôi chỉ đưa nó về một định nghĩa chung nhất và phân loại các Nghiệp theo tiêu chí phù hợp để làm rõ chuyên đề này thôi.

Định nghĩa về Nghiệp (karma) mà các giáo lý hay đề cập chung nhất ngắn gọn là : "Nghiệp luôn được bắt nguồn từ những tạo tác của tâm (ý) thông qua những hoạt động của thân, miệng và ý, gọi chung là tam nghiệp"

Nghiệp nếu chia về tính chất sẽ là 03 loại: Thiện Nghiệp, Ác Nghiệp và Nghiệp không thiện không ác. Về hai loại đầu thì khá rõ ràng nhưng loại thứ 3 thì tôi sẽ nói rõ hơn về nó cũng là để hiểu rõ hơn về định nghĩa Nghiệp ở bên trên: "Những hành động có tâm ý (phát sinh từ tâm) mới gọi là Nghiệp". Ví dụ: Khi ta đi bộ, ta vô ý ta đạp chết một con vật mà ta cũng không hề hay biết chi cả. Rõ ràng ta không có tâm ý sát sinh gì trong đây hết nên hành động này không gọi là Nghiệp mà trong giáo lý họ gọi là hành động duy tác (Kriyà). Nhưng khi ta nghe một tiếng "bép" và ta nhìn xuống chân ta thấy mình đạp chết con vật đó và ta biết mình vừa sát sanh thì nó là Nghiệp không thiện không ác (Duy tác Nghiệp).

Nghiệp chia theo riêng - chung gồm Biệt Nghiệp (nghiệp cá nhân) và Cộng Nghiệp (nghiệp cộng đồng)

Nghiệp chia theo thời gian gồm Nghiệp Cũ (nghiệp đã được tích lũy từ nhiều đời sống quá khứ, và hiện tại nó đã chín muồi thành những đặc thù) và Nghiệp Mới (nghiệp mà bạn đang tạo trong kiếp sống này). Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật thuyết: "Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý hiện nay là nghiệp cũ. Các hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới"

Nghiệp chia theo tiến trình gồm Định Nghiệp (các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả ngay) và Bất Định Nghiệp (Là nghiệp không dẫn đến kết quả ngay, hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian bất định nào đó)

Nghiệp chia theo năng lực gồm:
- Tập quán Nghiệp ( Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hàng ngày).
- Tích lũy nghiệp: ( Là các nghiệp được tích lũy dần từ nhiều kiếp sống)
- Cực trọng nghiệp ( Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh đánh sâu vào trong tâm lý của chúng ta như giết người chẳng hạn)
- Cận tử nghiệp (Là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của con người trước lúc tắt thở)

Ngoài ra theo giáo lý về nghiệp, một nhân không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, nói đủ phải nói là nhân - duyên - quả. Duyên là tác nhân phụ làm cho nhân chính thành quả. Nó tạo ra sự phức tạp của nghiệp mà nhiều người hay ca thán "Thật sự có nhân quả hay không?" khi thấy lắm người sống ác nhưng lại giàu sang phú quý, còn người sống hiền lành lại bất hạnh chẳng hạn. Một số trường hợp chưa xảy ra là do Duyên chưa tới hay chưa đủ thôi. Đến lúc đủ Duyên thì bắt buộc nó phải tới không chạy đâu được cả.
.
(Còn tiếp)

Bài đăng nổi bật

Dịch Lời Nhạc Quốc Tế (Phần 9)

CƠN MƯA (La pioggia - Nhạc Ý) Em đọc báo biết rằng Thời gian sẽ thay đổi Những đám mây đen sẽ phủ kín bầu trời Và chim sẻ ở đó Ngư...