31. THIÊN HƯỚNG VÔ VỊ (TWADDLE TENDENCY)
Một ví dụ về con ong mật, khi nó tìm thấy mật hoa, nó giao tiếp với những con ong khác vị trí của mật hoa - nhưng khi nó không thể tìm thấy mật hoa thay vì rút về tổ ong, nó trở lại để thực hiện một điệu nhảy kỳ quặc với những con ong khác. nó không có phương tiện truyền đạt những gì nó có (hoặc đúng hơn là không tìm thấy).
Khi được hỏi tại sao một phần năm người Mỹ không thể định vị đất nước của họ trên bản đồ thế giới, Miss Teen South Carolina - một học sinh tốt nghiệp trung học - đã trả lời câu hỏi này trước máy quay: 'Cá nhân tôi tin rằng người Mỹ không thể làm như vậy bởi vì một số người ngoài quốc gia của chúng tôi không có bản đồ và tôi tin rằng nền giáo dục của chúng tôi như Nam Phi và Iraq ở khắp mọi nơi như vậy và tôi tin rằng giáo dục của chúng tôi ở đây ở Mỹ sẽ giúp Mỹ, nên giúp Nam Phi và giúp Iraq và các nước châu Á, vì vậy chúng tôi sẽ có thể xây dựng tương lai của mình. ”
Thảm họa, bạn có đồng ý như vậy không, nhưng có lẽ bạn không lãng phí quá nhiều thời gian để lắng nghe các nữ hoàng sắc đẹp trả lời.
Cả hai đều là biểu hiện của cùng một hiện tượng, thiên hướng vô vị hay thiên hướng vô giá trị (twaddle tendency). Ở đây, các từ được sử dụng để che giấu sự lười biếng trí tuệ, ngu dốt, hoặc những ý tưởng kém phát triển. Đôi khi nó hoạt động, đôi khi không. Đối với nữ hoàng sắc đẹp, chiến lược tung hỏa mù thất bại một cách thảm hại. Đối với con ong mật (Cũng may chưa phải là nữ hoàng ong chúa :-) - lời thêm của dịch giả), nó có thể hoạt động nhưng là một hoạt động vô giá trị và vô nghĩa lý. Càng nhiều mây mù của các từ, các hành động chúng ta càng dễ dàng rơi bẫy vào chúng. Nếu được sử dụng hay kết hợp với cùng với thành kiến quyền lực (authority bias), nó có thể đặc biệt nguy hiểm vì chúng ta sẵn sàng chấp nhận các từ ngữ và hành động mà không có thói quen đặt dấu hỏi ngược lại hay xem xét bề sâu trong mỗi câu chuyện hay mỗi con người thật trong đời sống thật của họ (cả không thấy sự khổ tâm của họ nếu có) bởi sự ngưỡng mộ tôn sùng mù quáng hay bởi nó là một khung trời mơ ước của chính mình chẳng hạn
Tóm lại: biểu hiện bằng lời nói hay hành động là tấm gương của tâm trí. Những suy nghĩ rõ ràng cũng có khi mơ hồ biến thành những câu chữ hay hành động vô nghĩa. Vấn đề là, trong nhiều trường hợp, chúng ta thiếu suy nghĩ minh mẫn. Thế giới phức tạp, và phải mất rất nhiều nỗ lực tinh thần để hiểu ngay cả một khía cạnh của toàn bộ. Cho đến khi bạn trải nghiệm một điều hiển nhiên như vậy, tốt hơn là chú ý đến lời nói của Mark Twain: "Nếu bạn không có gì để nói, hãy đừng nói." Sự Đơn Giản là đỉnh cao của một hành trình dài, gian khổ, không phải là điểm khởi đầu cho mọi tiến trình
32. ẢO TƯỞNG KỸ NĂNG ( ILLUSION OF SKILL)
Tại sao có rất ít doanh nhân nối tiếp - các doanh nhân bắt đầu thành công các công ty thành công? Tất nhiên, có Steve Jobs và Richard Branson, nhưng họ đại diện cho một thiểu số nhỏ. Doanh nhân nối tiếp chiếm ít hơn một phần trăm số người bắt đầu một công ty. Tất cả họ đều nghỉ hưu với những chiếc du thuyền tư nhân của mình sau thành công đầu tiên giống như người đồng sáng lập Microsoft Paul Allen đã làm? Chắc chắn là không. Những người kinh doanh thực sự sở hữu quá nhiều việc thức dậy và ngồi trên ghế bãi biển hàng giờ đồng hồ. Có phải vì họ không thể buông xuôi và muốn nâng niu các công ty của họ cho đến khi họ 65 tuổi? Không. Hầu hết những người sáng lập bán cổ phần của họ trong vòng mười năm.
Trên thực tế, bạn sẽ cho rằng những người mới bắt đầu có tài năng, một mạng lưới cá nhân tốt và một danh tiếng vững chắc sẽ được trang bị tốt để tìm thấy nhiều khởi nghiệp khác. Vậy tại sao họ dừng lại? Họ không dừng lại. Họ chỉ vừa thất bại trên đỉnh thành công. Chỉ có một câu trả lời có ý nghĩa: may mắn đóng một vai trò lớn hơn kỹ năng. Không có doanh nhân nào thích nghe điều này. Khi lần đầu tiên tôi nghe về ảo tưởng về kỹ năng (illusion of skill), phản ứng của tôi là: "Cái gì, thành công của tôi là một may mắn sao?" Lúc đầu, nghe có vẻ hơi khó chịu, đặc biệt nếu bạn làm việc chăm chỉ để có nó.
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về thành công của các doanh nghiệp. Bao nhiêu là may mắn, và bao nhiêu là thành quả của lao động cực khổ và tài năng khác biệt? Câu hỏi này hoàn toàn không khó hiểu. Tất nhiên, chả có gì đạt được mà không có ít nhiều tài năng, và không có gì đạt được mà không lao tâm khổ trí. Thật không may, chẳng phải kỹ năng cũng không phải là lao động vất vả hay lao tâm hoặc lo nghĩ vì nó là những tiêu chí chính để thành công. Chúng là cần thiết - nhưng không đủ. Làm sao chúng ta biết được điều này? Có một bài kiểm tra rất đơn giản: một người thành công trong một thời gian dài (nhiều hơn thế, khi họ tận hưởng nhiều thành công trong thời gian dài hơn so với những người kém chất lượng hơn) thì chỉ khi đó tài năng mới là yếu tố thiết yếu. Đây không phải là trường hợp với những người sáng lập công ty; nếu không, phần lớn các doanh nhân thành công sẽ và sau thành tích đầu tiên, tiếp tục tìm thấy và phát triển các công ty khởi nghiệp thứ hai, thứ ba và thứ tư ...(Mỗi một doanh nhân nổi tiếng chỉ gần như gắn liền với một thương hiệu duy nhất mà họ tạo dựng, hiếm khi có cái thứ hai hay thứ ba nào khác - lời thêm của dịch giả và dịch giả tô đậm chữ nổi tiếng để phân biệt với các doanh nhân lèo tèo có hàng chục công ty mà chả cái nào thật sự nổi bật và đa phần góp vốn là chính)
Trong một số lĩnh vực, kỹ năng không có vai trò gì cả. Trong cuốn sách "Thinking, Fast and Slow", Kahneman mô tả chuyến thăm của ông tới một công ty quản lý tài sản. Tóm lại, họ đã gửi cho anh một bảng tính thể hiện hiệu suất của từng cố vấn đầu tư trong tám năm qua. Từ đây, một thứ hạng được gán cho mỗi: số 1, 2, 3 và cứ như vậy theo thứ tự giảm dần. Điều này đã được biên soạn mỗi năm. Kahneman nhanh chóng tính toán mối quan hệ giữa các bảng xếp hạng của năm. Cụ thể, ông tính toán mối tương quan giữa các bảng xếp hạng giữa năm 1 và năm thứ 2, giữa năm 1 và năm 3, năm 1 và năm thứ 4, cho đến năm thứ 7 và năm thứ 8. Kết quả: trùng hợp ngẫu nhiên. Đôi khi cố vấn ở trên cùng và đôi khi ở dưới cùng. Nếu một cố vấn đã có một năm tuyệt vời, điều này đã không được củng cố bởi những năm trước và cũng không được chuyển sang những năm tiếp theo. Mối tương quan là số không. Tuy nhiên, các chuyên gia tư vấn bỏ túi tiền thưởng cho hiệu suất của họ. Nói cách khác, công ty đã thưởng cho may mắn hơn là kỹ năng.
Tóm lại: một số người kiếm sống nhờ khả năng của họ, chẳng hạn như phi công, thợ ống nước và luật sư. Ở một số lĩnh vực khác, kỹ năng là cần thiết nhưng không thực sự quan trọng, như với các doanh nhân và các nhà lãnh đạo. Cuối cùng, "cơ hội" là yếu tố quyết định trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như trong thị trường tài chính. Ở đây, ảo tưởng về kỹ năng (illusion of skill) tràn ngập. Vì vậy: hãy cho thợ ống nước một sự tôn trọng và cười khúc khích về thành công tài chính của các jesters (không dịch chữ jester bởi ẩn ý chứ không phải bởi chế nhạo)
33. THÀNH KIẾN kết hợp ( ASSOCIATION BIAS)
TẠI SAO KINH NGHIỆM CÓ THỂ HỦY HOẠI NHỮNG ĐÁNH GIÁ
Chúng ta tự động kết nối một kích thích (vật / người) với nỗi đau (sợ hãi) hoặc niềm vui (hy vọng). Như bản năng tìm kiếm niềm vui hướng chúng ta tìm kiếm các kết hợp tích cực và cố gắng loại bỏ những yếu tố tiêu cực. Điều này xảy ra dễ dàng khi chúng ta trải nghiệm những hậu quả tích cực hay tiêu cực của một kích thích. Sự kiện càng sinh động càng dễ nhớ. Thương hiệu (bao gồm cả người) cố gắng ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta bằng cách kết hợp với những điều tích cực.
Não của chúng ta là một cỗ máy kết nối. Điều này là khá thực tế: nếu chúng ta ăn một trái cây lạ và cảm thấy bị bệnh sau đó, chúng ta tránh nó trong tương lai, ghi nhãn "thực vật độc hại" hoặc ít nhất là rất khó chịu. Đây là cách tri thức đến. Tuy nhiên, phương pháp này cũng tạo ra những kiến thức sai lệch. Nhà khoa học Nga Ivan Pavlov là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu về hiện tượng này. Mục tiêu ban đầu của ông là đo lường sự tiết nước bọt ở chó. Ông ta đã sử dụng chuông để gọi những con chó ra ăn, và sau đó tiếng chuông reo là đủ để làm cho những con chó chảy nước bọt. Bộ não của động vật liên kết hai thứ không liên quan đến chức năng của nhau - tiếng chuông và tuyến nước bọt.
Giả sử chúng ta tạo điều kiện cho một con chó tiếp xúc với một giai điệu. Nếu chúng ta phát ra âm thanh mà không dạy cho chú chó một hành động cụ thể (trong thí nghiệm là đồ ăn), thì đôi tai của con chó có thể vểnh lên để nghe âm thanh nhưng sẽ không chảy nước bọt . Giai điệu này chỉ là một kích thích trung tính, vào thời điểm đó. Còn thức ăn cho chó là một kích thích vô điều kiện, bởi vì nó luôn luôn làm cho con chó tiết nước bọt.
Và sự kết hợp giữa thực phẩm và âm thanh của giai điệu, gợi ra một thí nghiệm học tập cho con chó. Sau một vài thử nghiệm lặp lại như vậy, sự kết nối giữa hai yếu tố phát triển và đủ mạnh để làm cho con chó chảy nước bọt mặc dù không có thức ăn. Các giai điệu, vào thời điểm này, đã trở thành một kích thích có điều kiện. Đây cũng là thứ Hy Vọng được hình thành. Cũng như Nỗi Đau được hình thành tương tự như thế (Quyển sách viết dài dòng cũng chỉ muốn nói một cách giản đơn chính thói quen hay kinh nghiệm quá khứ tạo ra các phản ứng có điều kiện với cụ thể là Hy Vọng hay Nỗi Đau chẳng hạn - Lời thêm của dịch giả, và dịch giả thích gọi loại thành kiến này cái tên là "thành kiến liên tưởng" hơn)
Thông điệp truyền tải những điều này được Mark Twain nói ngắn gọn nhất: ‘Chúng ta nên thận trọng để thoát ra khỏi một kinh nghiệm với việc xem nó chỉ như là một bài học trí óc chứa trong đó - và chỉ nên dừng lại ở đó; Đừng giống như con mèo ngồi trên nắp bếp nóng một lần và sẽ không bao giờ ngồi trên một cái bếp lò nóng một lần nữa - và điều đó là đúng đắn; nhưng cũng không vì thế mà sẽ không bao giờ ngồi xuống nắp bếp nữa dù đó là một nắp bếp lạnh '
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét